Tập bút ký và tản văn Gió thổi từ miền ký ức của Uông Thái Biểu. Ảnh: NV |
Tập tản văn dày dặn với 323 trang sách, tập hợp có hệ thống các bài tản văn của tác giả phần lớn đã từng đăng trên các báo, tạp chí. Khi đọc tập tản văn Gió thổi từ miền ký ức, người đọc cảm nhận được một sự hòa quyện giữa một hồn thơ, giọng văn sâu sắc và một nhà báo có sức quan sát, hồi tưởng, suy tư rất mạnh mẽ, để khám phá những giá trị văn hóa của dân tộc. Trong tập tùy bút và tản văn Gió thổi từ miền ký ức, tác giả công phu chọn lựa và phân loại thành ba phần. Thậm chí mỗi phần có thể thành một tập sách riêng, đó là: “Mạch nguồn bất tận”; “Hơi thở đại ngàn” và “Những tản mạn rời rạc”. Như tiêu đề bài viết đã đặt ra, chúng tôi tập trung vào tìm hiểu phần đầu: “Mạch nguồn bất tận” của tập tản văn, thể hiện sự đồng cảm và chia sẻ cùng tác giả để gửi thông điệp tới bạn đọc.
MẠCH NGUỒN BẤT TẬN TỪ VĂN HÓA DÂN TỘC
Như chính tác giả Uông Thái Biểu đã nói trong bài đầu tiên thay cho lời giới thiệu tập sách rằng: “Dòng chảy văn hóa Việt Nam từ thuở ngàn xưa như một dòng lưu huyết tạo nên sức sống mãnh liệt của dân tộc và truyền vào mỗi mạch máu của con dân Việt. Với người làm báo, văn hóa là nguồn mạch bất tận. Văn hóa có sức hút kỳ lạ, nó âm thầm nuôi dưỡng, tạo cảm hứng và bồi đắp bút lực...” (“Gió thổi từ miền ký ức”, Nxb. Hội Nhà văn, 2019, tr. 5 - các trích dẫn đều lấy từ sách này). Thật vậy, không chỉ với các nhà báo mà văn hóa cũng sẽ luôn là mạch nguồn bất tận đối với các nhà văn, các nhà làm nghệ thuật. Với Uông Thái Biểu, sự hun đúc tài năng qua kết hợp một tâm hồn thi sĩ với một khả năng quan sát, phân tích của một nhà báo đã giúp anh có được những bài viết sắc sảo. Hình như tới địa danh văn hóa nào, với vốn kiến văn quảng bác của anh cũng sẽ có những điểm nhìn, nhận thức, đánh giá, lý giải và sự chia sẻ thú vị với bạn đọc những suy tư độc đáo. Từ Hướng về đất Tổ đến Trước bến Giang Đình, qua Bên dòng sông giới tuyến, cho đến những lúc Về Hà Thành nghe xẩm, rồi Nhớ về Quan họ... Mỗi một địa danh, mỗi một di tích, mỗi một điểm văn hóa đều được nhìn nhận, đánh giá lại dưới lăng kính của nhà báo, nhà văn Uông Thái Biểu. Trong Hướng về đất Tổ, tác giả có lý khi viết rằng: “Lịch sử của mỗi quốc gia thường để lại chứng tích. Chứng tích có thể ngắm nhìn, có thể sờ mó nhưng bản nguyên lịch sử thì đã đi vào tâm thức mỗi người theo tuần hoàn của máu và trường tồn trong giao ứng đồng vọng giữa quá khứ và hiện tại” (tr. 66). Lịch sử và huyền thoại của dân tộc đan xen, hòa quyện vào nhau. Thông điệp cốt lõi mà tác giả muốn hướng người đọc đạt đến đó là dân tộc Việt Nam qua biết bao gian nan trong lịch sử, hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Tây hóa nhưng chúng ta không bị vong thân, vẫn tồn tại như một chân lý bất tuyệt. Con người và dân tộc Việt Nam đã và vẫn tìm thấy bản thân mình trong lịch sử của mình. Bởi vậy “Hướng về đất Tổ” là điều mà mỗi con dân Việt nên làm, cũng là điều đau đáu trong ước vọng của tác giả, lời kết của tác phẩm như khẳng định thêm điều đó: “Thời đại Hùng Vương – lịch sử và huyền thoại cứ hòa quyện vào nhau, mơ và thực, thực và mơ. Chính cái hay, cái đẹp trong tâm tưởng hành hương tìm về cội nguồn là vậy. Chim tìm tổ, người tìm tông, giá như mồng mười tháng ba lịch trăng tất cả mọi người dân Việt đều có mặt ở vùng đất Tổ để trẩy hội cộng đồng. Ta đi thăm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, đền Giếng, ta ngắm nhìn vùng ngã ba Bạch Hạc hoành tráng, những núi đồi như bát úp ở trung du. Ta đi tìm cái thực cái mơ. Ta dẫm chân trên tảng nền đất Tổ nhưng tâm ta được hòa trong khói hương nhiệm màu huyền thoại. Ta tìm về nguồn cội để thấy mọi người trong mình và mình được bao bọc trong ruột thịt đồng bào…” (tr. 66). Dĩ nhiên, đó chỉ là ao ước “giá như” của tác giả, nó xuất phát từ một tâm hồn yêu nước và mong muốn một sự đồng vọng, đồng ngưỡng, đoàn kết của dân tộc.
Với bài Bên dòng sông giới tuyến, Uông Thái Biểu dẫn dắt người đọc trở về cây cầu Hiền Lương, nơi "lịch sử đau thương và khát vọng thống nhất được cảm nhận một cách thật rõ ràng" (tr. 71). Từ dòng Bến Hải, anh nhìn ra những dòng sông khác – nơi mà "chuyện của sông là hiển linh những dấu mốc, những biến động, là dòng chảy khơi mạch nguồn cảm hứng về Tổ quốc" (tr. 72).
Qua những mẩu chuyện xúc động – người mẹ kẹt lại bờ Nam ngóng con suốt mười mấy năm, những ám hiệu đau đớn giữa hai bờ, hay hình ảnh “bốn đoàn đưa tang” – tác giả gợi lại những bi thương trong ký ức dân tộc. Hình tượng Bà mẹ vá cờ – mẹ Nguyễn Thị Diễm – cũng trở thành biểu tượng bất khuất được anh khắc họa đậm nét. Dù “vết thương thực sự đã lành trên thịt da Tổ quốc” (tr. 77), tác phẩm vẫn nhắc nhở bạn đọc trân trọng từng ngày hòa bình, từng nhịp sống yên lành hôm nay.
Trong Hải Vân Quan dưới trời mây trắng, tác giả không chỉ kể lại quá trình hình thành địa danh “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”, mà còn day dứt khi chứng kiến di tích biến thành phế tích. Anh viết: “Bên những bức đại tự in đậm dấu ấn lịch sử... là những dòng chữ nguệch ngoạc... Rác thải chất thành từng đống”. Và anh kết lại bằng một lời nhắn gửi đầy trách nhiệm: “Hãy giữ ngay Hải Vân Quan cho hôm nay và cho cả mai sau... để cảm khái về cổ sử, nhớ về những thời binh lửa can qua...” (tr. 83).
Bên cạnh các bài viết lịch sử - văn hóa, tác giả còn dành tình cảm đặc biệt cho những giá trị nghệ thuật dân gian. Trong bài Đào nương ở đất ca trù, anh viết: “Người già trước khi hòa mình trong cát còn kịp truyền lại câu hát cho lứa trẻ… người quê ấy vẫn vịn vào giai điệu ngàn xưa mà vui vầy hôm sớm…” (tr. 44) như một lời tri ân từ thẳm sâu tận đáy lòng của người yêu tha thiết mỗi nét văn hóa dân tộc.
Bằng ngôn ngữ giàu cảm xúc, những trích dẫn chọn lọc và tâm huyết với từng trang viết, Uông Thái Biểu khẳng định vị trí của mình như một người kể chuyện văn hóa – lịch sử bằng trái tim yêu nước và cây bút đầy bản lĩnh.
MẠCH NGUỒN BẤT TẬN TỪ TIỀM THỨC VỀ QUÊ HƯƠNG
Có thể thấy trong các bài tản văn của mình, Uông Thái Biểu thường nhấn mạnh văn hóa như một “nguồn mạch bất tận”; và đối với độc giả cảm nhận, mạch nguồn ấy còn là quê hương – nơi khởi phát cảm xúc và nuôi dưỡng bút lực trong anh. Xuyên suốt tập tản văn, gần mười bài viết dành cho xứ Nghệ như một lời gọi quê âm ỉ, day dứt, khắc khoải.
Từ tập thơ Gió đồng, người đọc cảm nhận rõ nỗi nhớ làng quê thấm đẫm trong từng dòng chữ: “Ở nơi bắt đầu mình là con trai/ Có chiếc áo tanh mùi bùn hong bếp lửa rạ/ Có mùi chú cá con đi hoang lạc mẹ/ Có mùi khét thơm của khoai nướng quá lửa/ Ta gọi tìm nhau khản giọng đến bây giờ…” (Nhật ký một ngày mưa).
Quê hương hiện lên không chỉ qua ký ức tuổi thơ mà còn là hình ảnh bám rễ trong tâm hồn thi sĩ Uông Thái Biểu:
“Gió
Cất lên từ dòng sông
Giọng cười trinh nữ vỡ òa lấp lánh sóng…
Tôi nhặt lấy từ hình vẽ của những chiếc càng cua
Gương mặt mình trên cát
Ủ trong khói phân trâu chiều đốt đồng và khóc…”
(Gió đồng)
Dù hiện sống ở thành phố ngàn hoa Đà Lạt, nhưng trong tâm thức Uông Thái Biểu, xứ Nghệ vẫn là “nơi bắt đầu mình là con trai” – nơi gắn bó máu thịt không chỉ bằng hồi ức, mà còn bằng cả thi ca và tản văn, bằng ký ức mùi bùn, vị khoai, và tiếng gọi nhau khản giọng giữa trưa làng quê.
Trong Thăm thẳm hồn quê, Uông Thái Biểu khắc họa một làng quê đang chuyển mình hối hả giữa cơn lốc đô thị hóa. Từ ký ức đói nghèo hằn sâu trong câu vè: “Trời ơi! Biết đến khi mô/ Sớm chiều xúc ló trong bồ ra xay...” khiến anh “nhớ lại mà nghẹn lòng”, đến nay, người quê đã giàu lên nhờ giá đất, nuôi tôm, buôn gỗ... Làng không còn thiếu thứ gì mà phố có – trừ một điều: “thiếu dần cái nghĩa xóm, tình làng”.
Thông điệp của tác giả rõ ràng: cái tình làng, cái đạo làm người không thể để mai một theo sự phát triển vật chất. “Hình ảnh quê cứ thân thương hiện lên lung linh như nơi chốn gửi cảm xúc lối cũ quay về” (tr. 12). Nhưng, theo anh, làng giờ đây đang dần mất đi vẻ đẹp thanh tao, tình tứ: “Làng lớn hơn, làng sang trọng hơn, nhưng có khi làng đang đánh mất dần cái vẻ đẹp của mình.” Câu kết như một tiếng thở dài cảnh tỉnh: “Làng bây giờ như hộp. Làng xấu đi từ quy hoạch, từ kiến trúc, từ mưu toan, ăn xổi ở thì, hãnh tiến, ngạo mạn... Phố chưa hẳn đã ra phố, nhưng làng chẳng còn dáng dấp của làng”... (tr. 13).
Trong Khúc đồng dao thời thơ ấu, Uông Thái Biểu dẫn người đọc trở về một miền ký ức đầy thương mến – nơi tuổi thơ nghèo khó, hồn nhiên và chan chứa tình bạn. Danh, Lâm, Thu, Sơ, Anh, Ích, Minh... không chỉ là tên gọi, mà là một phần tâm hồn anh – “hồn nhiên như bùn đất”. Chiến tranh, thiếu thốn, trò chơi quê mùa… tất cả vẫn sống động qua năm tháng. Anh thổn thức: “Bao nhiêu năm rồi mà không thể nào quên. Danh, Thu, Sơ, Lâm, Anh, Ích, Minh... ơi! Con sóng vô tình ngậm tăm không một lời thủ thỉ. Quê nhà giờ xa lắc. Dòng sông chảy ngược về ngày xưa” (tr. 19).
Dẫu mỗi người giờ một ngả – người giàu sang, người đã khuất, người lam lũ nơi quê nhà – thì với tác giả, tất cả vẫn nguyên vẹn như ngày xưa, như “một chút ấm còn sót lại giữa đời thường bươn chải”. Đó không chỉ là hồi ức, mà là miền ký ức mang hình hài yêu thương, luôn trở về trong những chiều Đà Lạt lạnh buốt.
Trong Dòng sông hát, Uông Thái Biểu viết về dòng sông Lam quê nhà không chỉ như một biểu tượng của thiên nhiên, mà như một người mẹ, một người phụ nữ từng trải, dịu dàng và can trường. Anh không ví sông Lam bằng sự trong xanh, mà bằng “những quằn quại của nỗi đau thân xác”, như một người đàn bà “mỉm cười yếu ớt sau cơn vượt cạn”. Với anh, “nước sông Lam đục nhiều hơn xanh, bởi dòng sông ấy đã phải chở trong mình quá nhiều những âu lo, những trầm luân và cát bụi của thượng nguồn”. Từ hình ảnh dòng sông, tác giả dẫn người đọc về ký ức của một cậu bé mất cha sớm, mẹ đi bước nữa, và người bác dâu – vốn là người xa lạ – đã “trở thành mẹ tôi”: “Người đã lần hồi tạo trên nét mặt tôi dáng vẻ hồn nhiên. Người cho tôi những xúc cảm bình thường và cất tiếng hát để lau khô cho tôi những dòng nước mắt”.Hình ảnh bác dâu và dòng Lam hòa quyện, trở thành biểu tượng của tình yêu thương, sự bù đắp và nuôi dưỡng: “Cũng như công sinh thành của mẹ, công dưỡng dục của bác, dòng sông quê đã cho tôi hương vị của bùn để hiểu nỗi gian truân, màu xanh của nước để không khuấy đục, cho sự mát lành của gió để tôi biết thế nào là tình yêu thương” (tr. 24). Dòng sông hát không chỉ là bài ca về một dòng sông, mà là khúc ngợi ca ân nghĩa, sâu lắng và cảm động về tình thân, tình quê, và ký ức không thể nguôi quên.
Trong Ký ức thành Vinh, Uông Thái Biểu ghi lại một cách chân thực hành trình đổi thay của thành phố quê hương, từ hoang tàn sau bom đạn chiến tranh đến một đô thị trẻ trung, năng động. Những ký ức thời thơ ấu hiện về: “Tôi nhớ bom Mỹ dội kho xăng Hưng Dũng lửa cháy ngút trời… nhớ tuổi thơ mình trên gồng gánh trong đêm sơ tán qua thành Vinh hoang tàn, đổ nát”.Từ đống đổ nát, người thành Vinh đã “góp từng tấm ván lát hầm, mẩu sắt rỉ và cả những mảnh vỡ đạn bom để dựng lại quê hương” (tr. 59). Thành Vinh hôm nay là thành phố cảng, công nghiệp, du lịch, kết nối ba miền – “thành phố không ngủ”. Tuy nhiên, với cái nhìn tỉnh táo, tác giả bày tỏ mối lo ngại về sự phát triển mất cân bằng: “Nếu bàn về sự phân hóa giàu nghèo thì Vinh cực nhanh… dòng sông Lam thơ mộng và các bãi biển Cửa Lò, Cửa Hội đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của một đô thị lớn” (tr. 63).Lo không chỉ vì vật chất, mà vì môi trường, đạo đức, và tính bền vững. Đứng trên núi Dũng Quyết nhìn về thành phố, anh không quên giấc mộng kinh đô dang dở của vua Quang Trung: “Phượng Hoàng Trung Đô”. Dẫu giấc mộng xưa không thành, thì hôm nay, anh vẫn gửi gắm một niềm tin: “Đi trên những con đường hiện đại và phóng khoáng… sẽ cảm nhận ra một tương lai tươi sáng, hiện đại hơn trong dáng vóc thành Vinh” (tr. 65).
***
Phần mở đầu tập tùy bút Gió thổi từ miền ký ức – với tiêu đề “Mạch nguồn bất tận” – đã khẳng định một điều rõ ràng: với Uông Thái Biểu, văn hóa chính là điểm khởi nguyên và cũng là đích đến của hành trình sáng tạo. Chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn, tác giả khẳng định: “Từ ‘Mùa lữ hành’ đến ‘Gió thổi từ miền ký ức’, với tôi, vẫn là một mạch hành trình bản thân đã lựa chọn – đó là những trải nghiệm văn hóa… Được đắm mình trong những dòng chảy đầy hấp lực và cũng nhiều biến động của văn hóa… với tôi là một niềm hạnh phúc, là cảm hứng bất tận” (Lê Trọng, Nhà báo Uông Thái Biểu với hành trình trải nghiệm mạch nguồn văn hóa dân tộc, https://baolamdong.vn/ (21/06/2020).
Là nhà báo, nhà văn, Uông Thái Biểu không chỉ viết vì nghề, mà viết như một nhu cầu tự thân, như một cách giao cảm giữa người viết và người đọc. Theo anh, mỗi tác phẩm là một “hành vi tìm kiếm niềm đồng cảm”. Tài năng ấy, theo nhà văn Lại Văn Long, được thể hiện qua “từng câu chữ toát lên sự tự tin, đĩnh đạc của người hiểu biết, từng trải và có tấm lòng nhân ái với đất, với người, thiên nhiên” ("Miền ký ức" của Uông Thái Biểu, https://congan.com.vn/ (Thứ Thứ Bảy, 26/02/2022). Điều đó được khẳng định qua sự chỉn chu trong từng trang viết, qua ý thức lao động nghiêm túc, cùng vốn kiến văn sâu rộng tích lũy qua nhiều năm sống và làm nghề.
Chắc chắn người đọc sẽ còn đồng cảm với Uông Thái Biểu không chỉ có từ “Mạch nguồn bất tận” của văn hóa hay từ tiềm thức về quê hương, mà còn nữa những cảm nhận từ “Hơi thở của đại ngàn” và những suy nghĩ hàng ngày được đúc kết chuyển tải trong tác phẩm: Gió thổi từ miền ký ức…
Nguồn: https://baolamdong.vn/van-hoa-nghe-thuat/202506/mach-nguon-bat-tan-trong-tap-tuy-but-va-tan-van-gio-thoi-tu-mien-ky-uc-cua-uong-thai-bieu-7ed0c51/
Bình luận (0)