Dấu ấn quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức
Năm 1957, chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Cộng hòa Dân chủ Đức đã đánh dấu mốc quan trọng, đặt nền móng cho mối quan hệ hữu nghị sâu sắc giữa hai đất nước. Trong lịch sử, dù hoàn cảnh khác biệt, Việt Nam và Đức luôn thấu hiểu và ủng hộ lẫn nhau. Khi nhân dân Việt Nam tiến hành công cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước, ở lục địa châu Âu xa xôi, những người bạn Đức luôn thể hiện sự ủng hộ đối với Việt Nam.
Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, năm 1975, Việt Nam - Đức chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong thời kỳ này, Đức hỗ trợ Việt Nam các dự án nông nghiệp và hợp tác xuất khẩu lao động. Khi nước Đức thống nhất vào năm 1990, quan hệ hai nước chuyển biến sâu sắc với việc ký kết nhiều hiệp định quan trọng như Hiệp định hợp tác văn hóa (năm 1990), Hiệp định bảo hộ đầu tư (năm 1993), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (năm 1996), tạo khuôn khổ hợp tác toàn diện.
Năm 2011, nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Đức Angela Merkel, quan hệ Việt Nam - Đức bước sang giai đoạn phát triển mới với việc ký kết Tuyên bố chung Hà Nội về “Việt Nam và Đức - Đối tác chiến lược vì tương lai”. Quan hệ đối tác chiến lược tập trung vào các lĩnh vực đào tạo nghề, môi trường và năng lượng, với dòng vốn đầu tư từ Đức không ngừng gia tăng.
Sau chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Đức Olaf Scholz (tháng 11-2022), quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước có nhiều bước tiến mới, trong đó có việc thực hiện thành công các kế hoạch hành động triển khai đối tác chiến lược các giai đoạn và việc ký thỏa thuận Kế hoạch hành động triển khai Đối tác Chiến lược giai đoạn 2023 - 2025, ký kết và triển khai một số khuôn khổ hợp tác mới như Biên bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác quốc phòng,… cũng như tích cực trao đổi đoàn các cấp.
Hợp tác sâu rộng và thực chất
Sau nửa thế kỷ, quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Đức không ngừng được củng cố và phát triển toàn diện, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, ghi nhận thành tựu nổi bật trên cả bình diện song phương và đa phương.
Với nền tảng dựa trên sự hiểu biết, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam và Đức đã phát triển mạnh mẽ trong suốt 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 14 năm quan hệ đối tác chiến lược. Điểm nổi bật trong mối quan hệ Việt Nam - Đức chính là nền tảng vững chắc, chia sẻ các giá trị chung về hòa bình, hợp tác quốc tế và giải quyết các xung đột bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế. Đây là những giá trị cốt lõi mà hai quốc gia đều đặt lên hàng đầu. Sự tin cậy lẫn nhau được củng cố qua các chuyến thăm giữa các lãnh đạo Việt Nam và Đức những năm gần đây. Điển hình là chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Đức Olaf Scholz (năm 2022) và chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier (năm 2024).
Hai nước cũng tăng cường hợp tác qua các kênh đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ tốt đẹp với các đảng chính trị lớn của Đức như Đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD), Đảng cánh tả (Die Linke) và Đảng Cộng sản (DKP), với trọng tâm hợp tác về các vấn đề ngoại giao đa phương, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế - xã hội.
Hai nước duy trì các cuộc gặp cấp cao và hợp tác tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Đức và ASEAN - Liên minh châu Âu (EU), chia sẻ quan điểm về trật tự quốc tế dựa trên luật lệ và giải quyết hòa bình các xung đột. Đức luôn đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong khu vực và quốc tế, đồng thời ủng hộ đường lối đổi mới của Việt Nam.
Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Đức là một trụ cột quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược. Đức là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam tại châu Âu và ngược lại, Việt Nam cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Đức tại Đông Nam Á và đối tác lớn thứ 6 tại châu Á, với kim ngạch thương mại hai chiều tăng đều trên 10% hằng năm trong nhiều năm gần đây. Năm 2023, kim ngạch thương mại hai nước đạt xấp xỉ 12 tỷ USD, tăng gấp ba lần trong 10 năm qua. Đức đóng góp tích cực trong việc phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Qua đó, giúp tăng cường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Đức (như các mặt hàng nông sản: cà phê tăng 45,7%, hạt tiêu tăng 151,8%, cao su tăng 83,43%...).
Về đầu tư, với vị thế địa - chính trị của Việt Nam tại khu vực châu Á, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng, nền kinh tế năng động, lực lượng lao động trẻ, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Đến cuối năm 2023, Đức xếp thứ 17 trong số 146 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 463 dự án và tổng vốn đăng ký 2,68 tỷ USD, tập trung tại các tỉnh, thành phố có kết cấu hạ tầng phát triển như các thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Hà Nội. Đến nay, 530 doanh nghiệp Đức đã và đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có các tập đoàn lớn của Đức như Siemens, Bosch và Deutsche Bank, cùng với các dự án tiêu biểu như Nhà máy điện mặt trời Thanh Hóa và Nhà máy tách khí công nghiệp tại tỉnh Quảng Ngãi. Trong năm 2024, Đức tiếp tục gia tăng đầu tư với 472 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 2,76 tỷ USD, đánh dấu sự tăng trưởng ổn định.
Đức là một trong những nhà viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực năng lượng, đào tạo nghề gắn với phát triển bền vững và chính sách môi trường. Đức cam kết viện trợ không hoàn lại 61 triệu euro cho Việt Nam cho giai đoạn 2024 - 2025.
Về tài chính - tiền tệ, Việt Nam và Đức duy trì mối quan hệ hợp tác tài chính bền vững với sự hỗ trợ đáng kể từ Chính phủ Đức thông qua các dự án cải cách kinh tế vĩ mô, tài chính - ngân hàng và phát triển xanh. Hiệp định hợp tác tài chính 2014 - 2015 được hai nước ký kết với cam kết gần 370 triệu euro để cải thiện kết cấu hạ tầng, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam đối mặt với các thách thức của biến đổi khí hậu, Đức hỗ trợ tích cực cho Việt Nam triển khai cam kết trong khuôn khổ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP), giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát triển bền vững và mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Hợp tác văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và Đức có lịch sử lâu đời, bắt đầu từ năm 1955, với cầu nối đặc biệt được hình thành từ cộng đồng gần 200.000 người Việt Nam tại Đức và khoảng 100.000 người tại Việt Nam biết tiếng Đức. Hiệp định hợp tác văn hóa từ năm 1990 đã tạo nền móng cho các hoạt động giao lưu nghệ thuật, nghiên cứu ngôn ngữ và bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam, với các dự án tiêu biểu như trùng tu cung An Định và điện Phụng Tiên do Đức tài trợ. Các trung tâm văn hóa như Viện Goethe, Ngôi nhà Đức tại thành phố Hồ Chí Minh góp phần củng cố sự hiểu biết song phương.
Thông qua các tổ chức như Hội Hữu nghị Việt Nam - Đức, Hội Đức - Việt và Liên hiệp Hội người Việt tại Đức, cộng đồng người Việt Nam tại Đức tăng cường các hoạt động ý nghĩa về văn hóa, giáo dục, kinh tế, tạo sự đoàn kết và hội nhập. Hai nước thường xuyên tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa, như biểu diễn nghệ thuật, triển lãm ẩm thực, chương trình quảng bá văn hóa, góp phần thắt chặt tình hữu nghị và xây dựng nền tảng bền vững cho quan hệ song phương.
Hợp tác lao động giữa Việt Nam và Đức là lĩnh vực quan trọng, phản ánh sự kết nối sâu sắc về kinh tế, văn hóa và xã hội giữa hai nước. Trong khi Đức đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động do tỷ lệ sinh thấp và dân số già hóa, nhất là trong các ngành như điều dưỡng, xây dựng và cơ khí, thì Việt Nam sở hữu lực lượng lao động trẻ, dồi dào, sẵn sàng hội nhập. Năm 2011, hai nước ký kết Biên bản ghi nhớ giữa Bộ Lao động - Thương binh và xã hội Việt Nam (nay là Bộ Nội vụ) và Cơ quan Lao động Liên bang Đức (BA), hướng tới các chương trình tuyển chọn và đào tạo lao động Việt Nam làm việc tại Đức, nhất là trong lĩnh vực điều dưỡng và các ngành, nghề kỹ thuật cao. Dự án “Triple Win” từ năm 2019 và chương trình “Hand in hand for international talents” từ năm 2022 đã mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động Việt Nam tại Đức. Năm 2024, Thỏa thuận hợp tác lao động di cư được hai nước ký kết, tiếp tục khẳng định sự quan tâm sâu sắc của hai quốc gia đối với lĩnh vực lao động, đồng thời thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quan hệ hợp tác giáo dục - đào tạo giữa Việt Nam và Đức đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Các tổ chức giáo dục - đào tạo của Đức có mặt tại Việt Nam như Trung tâm Việt Đức (VDZ), Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD), Ủy ban Giáo dục phổ thông tiếng Đức tại nước ngoài (ZfA), Trường Đại học Việt - Đức (VGU), Trường Quốc tế Đức tại thành phố Hồ Chí Minh (IGS) không chỉ hỗ trợ giảng dạy tiếng Đức, trao đổi học thuật, mà còn thúc đẩy nghiên cứu khoa học và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, DAAD đóng góp lớn trong việc cung cấp học bổng và nâng cao năng lực ngôn ngữ, trong khi VGU và IGS cung cấp các chương trình đào tạo tiêu chuẩn quốc tế, quảng bá văn hóa Đức. Hợp tác giáo dục mang lại lợi ích song phương, giúp Việt Nam nâng cao chất lượng đào tạo và hội nhập quốc tế, đồng thời mở rộng ảnh hưởng văn hóa, giáo dục của Đức tại Đông Nam Á. Các tổ chức như Viện Friedrich-Ebert-Stiftung (FES), Quỹ Konrad-Adenauer (KAS) và Viện Hanns Seidel (HSS) triển khai các chương trình phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay có khoảng 7.500 học sinh, sinh viên Việt Nam đang học tập tại Đức, góp phần tăng cường quan hệ song phương và đóng góp tích cực vào xã hội Đức.
Hợp tác khoa học - công nghệ giữa Việt Nam và Đức đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Trước năm 1995, hợp tác trong lĩnh vực này chủ yếu chú trọng vào đào tạo và nâng cao trình độ nghiên cứu thông qua các quỹ hỗ trợ của Đức như DAAD, Alexander & Humboldt. Năm 1997, Nghị định thư hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức đã tạo nền tảng pháp lý cho việc tăng cường hợp tác. Theo đó, hai nước thường xuyên trao đổi thông tin, tổ chức hội thảo và thực hiện các dự án chung, nhất là trong các lĩnh vực nghiên cứu biển, công nghệ xử lý nước và môi trường. Ngoài ra, các hoạt động đối thoại, hội thảo và triển lãm được tổ chức thường xuyên nhằm kết nối doanh nghiệp, viện nghiên cứu hai nước. Hợp tác khoa học - công nghệ không chỉ mang lại lợi ích cho Việt Nam và Đức, mà còn đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu, khẳng định vị thế quan trọng của Đức trong đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Về môi trường, phát triển bền vững, từ năm 2020, Chính phủ Đức xác định Việt Nam là “đối tác toàn cầu” trong Chiến lược hợp tác phát triển đến năm 2030 của nước này, với trọng tâm hợp tác về đào tạo, tăng trưởng bền vững, khí hậu và năng lượng, môi trường và tài nguyên thiên nhiên, cùng phòng, chống đại dịch. Đức cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam hơn 143,5 triệu euro trong giai đoạn 2022 - 2023, theo đó triển khai 78 dự án về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học, trong đó có dự án “Hỗ trợ Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris” (VN-SIPA).
Hợp tác y dược giữa Việt Nam và Đức đạt nhiều kết quả trong chăm sóc sức khỏe, nghiên cứu dược phẩm, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ. Các hoạt động hợp tác tiêu biểu như Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, hợp tác giữa Bệnh viện Quân y 175 và các đối tác Đức, Dự án Tăng cường hệ thống y tế tuyến tỉnh (2009 - 2016) đã đóng góp vào việc cải thiện kết cấu hạ tầng, năng lực y tế và chất lượng chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. Đức hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực y tế từ xa, xử lý rác thải y tế và trao đổi chuyên gia, đồng thời triển khai các chương trình đào tạo điều dưỡng viên Việt Nam sang Đức làm việc. Trong đại dịch COVID-19, hai nước duy trì hợp tác chặt chẽ qua các hình thức linh hoạt. Đức hỗ trợ Việt Nam hơn 12,5 triệu liều vaccine và thiết bị y tế, trong khi Việt Nam cung cấp vật tư y tế.
Quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh đã có những bước tiến nổi bật, trở thành trụ cột chính, quan trọng trong quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước, đặc biệt trong bối cảnh những thách thức địa - chính trị ngày càng gia tăng trên toàn cầu và khu vực. Năm 2003, Việt Nam cử tùy viên Quốc phòng thường trú tại Berlin; năm 2019, Đức chính thức cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Việt Nam, tạo điều kiện tăng cường các hoạt động trao đổi đoàn, chuyên gia, học viên và chia sẻ kinh nghiệm tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Đặc biệt, tháng 1-2022, lần đầu khinh hạm FGS Bayern với hơn 200 thành viên của hải quân Đức đã cập cảng thăm Việt Nam, đánh dấu bước tiến mới trong hợp tác quốc phòng song phương. Tháng 11-2022, Bộ Quốc phòng hai nước ký kết Thỏa thuận hợp tác quốc phòng, thiết lập khuôn khổ hợp tác toàn diện về trao đổi đoàn, chia sẻ chiến lược, đào tạo, quân y và gìn giữ hòa bình. Thỏa thuận này góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác quốc phòng, củng cố quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Đức.
Hợp tác tư pháp - pháp luật giữa Việt Nam và Đức bắt đầu từ năm 1996 và được củng cố qua Tuyên bố chung năm 2008. Trên cơ sở này, hai nước triển khai các Chương trình Đối thoại Nhà nước pháp quyền qua nhiều giai đoạn, gần đây nhất là giai đoạn 2022 - 2025, với các hoạt động hội thảo, tọa đàm, nghiên cứu và khảo sát, góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính và tư pháp. Tháng 4-2024, trong chuyến thăm Đức của Đoàn công tác Bộ Tư pháp Việt Nam, lãnh đạo hai nước tái khẳng định cam kết hợp tác, đặc biệt trong nâng cao năng lực cán bộ pháp luật, đào tạo nghề tư pháp, chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp, hướng tới tăng cường hiệu quả và tính bền vững của quan hệ song phương.
Với hơn 200.000 người đang sinh sống, học tập, hội nhập thành công vào mọi mặt đời sống xã hội tại nước sở tại, cộng đồng người Việt Nam tại Đức ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần tạo nên cầu nối giữa hai dân tộc trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả kinh tế, văn hóa và giáo dục. Cộng đồng Việt Nam tại đây không chỉ nỗ lực giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa Việt Nam, làm giàu có và phong phú hơn cho nền văn hóa đa sắc màu của Đức, mà còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, kinh tế và văn hóa Đức, góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm mối quan hệ hai nước. Tình đoàn kết, sự phát triển và vai trò của cộng đồng người Việt Nam được khẳng định bằng việc thành lập Liên hiệp Hội người Việt tại Đức vào tháng 12-2023. Liên hiệp Hội là ngôi nhà chung, là tiếng nói chung của toàn bộ người Việt Nam trên toàn nước Đức ở cấp liên bang.
Phát triển và mở rộng tiềm năng hợp tác
Quan hệ hợp tác Việt Nam - Đức đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong những năm qua, tuy nhiên, dư địa phát triển vẫn còn rất lớn. Về kinh tế, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Đức có nhiều tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới nếu Việt Nam triển khai có hiệu quả hơn nữa việc tận dụng cơ hội tiếp cận thị trường Đức, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông sản, dệt may và điện tử thông qua Hiệp định EVFTA. Ngược lại, doanh nghiệp Đức có thể tận dụng môi trường đầu tư thuận lợi tại Việt Nam để mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Việt Nam và Đức có thể đẩy mạnh hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực mới như kinh tế số, thương mại điện tử, logistics,... Về văn hóa - xã hội, Việt Nam và Đức tăng cường hợp tác trong lĩnh vực du lịch và thực hiện các sáng kiến nhằm thúc đẩy du lịch bền vững. Hợp tác giáo dục - đào tạo giữa hai nước có thể mở rộng các chương trình hợp tác đào tạo nghề, đặc biệt trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như cơ khí, điện tử và công nghệ thông tin; chú trọng mở rộng và hoàn thiện chương trình đào tạo nghề chất lượng cao, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Việt Nam và Đức xem xét để tăng cường các chương trình trao đổi sinh viên, nghiên cứu sinh; các chương trình học bổng cho người Việt Nam sang học tập, nghiên cứu tại Đức.
Về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, Việt Nam và Đức có nhiều triển vọng để phát triển quan hệ hợp tác, đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam đang có cơ hội lớn để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và AI, đặc biệt khi có nguồn nhân lực trẻ dồi dào, được đào tạo tốt. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng các cơ hội hợp tác với Đức - quốc gia có nền tảng khoa học - công nghệ tiên tiến - trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Việt Nam và Đức cam kết mạnh mẽ việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; đẩy mạnh các dự án về năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên nước và bảo vệ đa dạng sinh học. Hai nước nghiên cứu để triển khai nhiều cơ chế và sáng kiến nhằm hợp tác có hiệu quả và thực chất hơn trong lĩnh vực này.
Triển vọng hợp tác giữa Việt Nam và Đức trong lĩnh vực y dược rộng mở, nhất là trong nghiên cứu y học, phát triển dược phẩm và ứng dụng công nghệ y tế. Cơ hội hợp tác trong đào tạo nhân lực, nhất là đào tạo chuyên sâu cho nhân viên y tế và điều dưỡng viên sẽ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam. Đồng thời, việc cải thiện kết cấu hạ tầng y tế và tiếp cận công nghệ y tế tiên tiến sẽ đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe ở cả hai quốc gia.
Hợp tác hành chính, tư pháp Việt Nam - Đức còn dư địa trong các lĩnh vực cải cách hành chính, đào tạo cán bộ tư pháp. Đồng thời, các chương trình hợp tác trong lĩnh vực tư pháp sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
Có thể thấy, trong bối cảnh thế giới đang trải qua nhiều biến động, bức tranh địa - chính trị toàn cầu ngày càng khó đoán định và xảy ra nhiều bất ổn, thách thức như hiện nay, việc tăng cường hợp tác và phát triển bền vững là yếu tố then chốt cho sự phát triển của các quốc gia. Do vậy, bề dày 50 năm quan hệ hợp tác Việt Nam - Đức là nền tảng vững chắc để hai nước tiếp tục khai thác tiềm năng hợp tác trong các lĩnh vực trên cơ sở triển khai tích cực các nội dung sau:
Một là, tăng cường tiếp xúc và trao đổi đoàn các cấp, trên tất cả các kênh Đảng, Nhà nước, Quốc hội và giao lưu nhân dân; tiếp tục duy trì các cơ chế hợp tác sẵn có. Việc tổ chức các chuyến thăm và gặp gỡ lãnh đạo cấp cao hai nước nhằm củng cố lòng tin và thúc đẩy hợp tác song phương. Qua đó, hai nước tăng cường trao đổi quan điểm về các vấn đề quốc tế và khu vực, là cơ hội để thảo luận về chiến lược, chính sách của hai bên, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và tìm kiếm các cơ hội hợp tác mới, thảo luận về các dự án hợp tác cụ thể.
Bên cạnh đó, việc duy trì và thiết lập các cơ chế đối thoại thường xuyên, các diễn đàn đối thoại định kỳ ở các cấp giúp rà soát và đánh giá tiến độ thực hiện các thỏa thuận, đồng thời tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại. Hiện nay, Việt Nam và Đức đã triển khai một số cơ chế đối thoại thường xuyên đạt hiệu quả như đối thoại giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và một số đảng của Đức, đối thoại giữa các bộ, ngành và cơ quan của hai nước. Trong thời gian tới, hai nước cần thiết lập thêm các cơ chế đối thoại mới để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới; đồng thời, duy trì và thúc đẩy các cơ chế đối thoại đã có giữa hai nước đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn.
Hai là, tăng cường hợp tác tại các diễn đàn đa phương. Với vai trò là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, hai nước tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn đa phương nhằm hợp tác giải quyết các thách thức toàn cầu, cũng như duy trì hòa bình, an ninh và phát triển bền vững. Đặc biệt, Việt Nam và Đức thúc đẩy các sáng kiến mới nhằm ứng phó với những biến động phức tạp của tình hình thế giới.
Ba là, thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực có tiềm năng phát triển mạnh như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,... nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại. Đặc biệt, Đức có thế mạnh trong công nghệ, giáo dục và đào tạo nghề, mang lại cơ hội hợp tác giúp Việt Nam nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh. Hai nước xem xét triển khai các chương trình đào tạo nghề theo mô hình đào tạo kép của Đức, các dự án nghiên cứu công nghệ mới, cũng như trao đổi chuyên gia, sinh viên và nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ, môi trường, y tế và giáo dục. Việt Nam cần xây dựng cơ chế phù hợp để thu hút doanh nghiệp Đức chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức và người lao động Việt Nam tiếp cận các tiêu chuẩn và kỹ thuật tiên tiến.
Bốn là, đẩy mạnh kết nối doanh nghiệp hai nước. Các doanh nghiệp đóng vai trò chủ chốt trong hiện thực hóa các thỏa thuận và mục tiêu hợp tác giữa Việt Nam và Đức. Hai nước tăng cường tổ chức các diễn đàn doanh nghiệp, hội chợ thương mại, các sự kiện xúc tiến đầu tư song phương nhằm tạo cơ hội kết nối doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng thiết lập kênh thông tin chuyên biệt để hỗ trợ doanh nghiệp hai bên tiếp cận thông tin về thị trường, đối tác và cơ hội đầu tư, khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của mỗi bên. Đặc biệt, khuyến khích doanh nghiệp Đức đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược tại Việt Nam, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường tại Đức.
Tập trung hoàn thiện thể chế và đề ra các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Tiếp tục cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục pháp lý và bảo đảm tính minh bạch trong các quy định liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Điều này giúp giảm chi phí và thời gian cho các doanh nghiệp Đức, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và cạnh tranh hơn. Chính phủ tiếp tục rà soát, điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với thế mạnh của Đức, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo và đào tạo nghề. Đồng thời, thiết lập các kênh đối thoại thường xuyên giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý để giải quyết vướng mắc kịp thời, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.
Năm là, thúc đẩy ký kết và tận dụng các hiệp định thương mại, đầu tư và các thỏa thuận hợp tác ở nhiều lĩnh vực khác. Việt Nam và Đức đẩy mạnh ký kết các hiệp định, thỏa thuận mới và tối ưu hóa việc thực thi các thỏa thuận hiện có để thúc đẩy hợp tác song phương. Hiệp định EVFTA đã tạo nền tảng quan trọng cho hợp tác thương mại, do vậy Việt Nam tích cực vận động Chính phủ Đức sớm phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA), mở thêm cơ hội hợp tác đầu tư Việt Nam - Đức.
Sáu là, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân. Văn hóa và giao lưu nhân dân là cầu nối quan trọng giúp thắt chặt quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia. Việt Nam và Đức cần tăng cường tổ chức các sự kiện văn hóa, lễ hội, triển lãm và các chương trình trao đổi nghệ thuật để giới thiệu bản sắc văn hóa của mỗi nước.
Tổ chức các chương trình gặp gỡ, thăm hỏi, tiếp xúc với bà con kiều bào tại Đức, các hội đoàn của người Việt Nam tại Đức nhằm chuyển tải các thông tin về tình hình phát triển của đất nước Việt Nam, động viên kiều bào sinh sống, làm việc ở nước bạn, luôn hướng về quê hương. Chú trọng phối hợp với chính quyền Đức để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người Việt Nam nhằm xây dựng một cộng đồng vững mạnh, đoàn kết và thịnh vượng./.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1094702/nam-muoi-nam-quan-he-hop-tac-viet-nam---duc--thanh-tuu-va-trien-vong.aspx
Bình luận (0)