Nghề làm muối ở huyện Bình Đại. Ảnh: Trương Minh Châu
Ngày mà tôi ràng rịt hành trang lên đường nhận công tác. Đi về một vùng đất nắng gió và hoang vu của rừng ngập mặn. Tôi ở một huyện ven biển Bình Đại của tỉnh Bến Tre. Nhưng nằm khoảng giữa lưng chừng mà thôi, chủ yếu làm ruộng và trồng dừa. Lần đầu tiên trong đời tôi về vùng quê nước mặn, chà là gai. Đọc sơ qua giấy báo địa điểm tập trung để nhận công tác là UBND xã Thạnh Phước. Đường đi về phía biển thật gian nan. Gió ngược, đường xấu, hai bên dãy ruộng phèn xơ xác, cỏ hoang mọc um tùm. Khoảng hơn một giờ đồng hồ chúng tôi đã có mặt. Trụ sở UBND xã Thạnh Phước là một căn nhà lá khá rộng, bàn ghế thưa thớt. Hội trường có những dãy ghế dài cố định, tấm ván dài bắc ngang làm ghế ngồi. Tâm trạng tôi lúc bấy giờ cảm thấy hoang mang tột cùng. Không biết ăn ở, dạy học chỗ nào đây? Sự giằng co của rối bời, xen lẫn nỗi sợ hãi. Và tôi đã bật khóc tức tưởi, không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra. Mấy người bạn đến gần an ủi động viên giúp tôi vượt qua, khoảnh khắc tâm lý bị rung chấn nhất thời.
Tôi được phân công dạy tại điểm trường ấp 4. Đây là điểm trường chính của xã. Vấn đề gian nan hơn, không biết chỗ ở cho giáo viên như thế nào? Chỉ ở tạm nhà dân thôi, thời đó xã làm gì có nhà tập thể cho giáo viên. Chủ trương của UBND xã Thạnh Phước chọn những hộ gia đình khá giả về kinh tế cho chúng tôi đến tá túc. Địa điểm tôi đến trọ là nhà Bác Hai, nằm cách điểm trường dạy học chừng non cây số. Nhà rộng rãi, gia đình ở chung gồm bốn người: Bác trai, bác gái, chị Hà và em Hiền. Còn anh Tiên con 2 bác đã có vợ ra riêng, cất nhà phía sau chừng 50m, cùng vợ và hai đứa con nhỏ. Bước đầu coi như đã tạm ổn “Vạn sự khởi đầu nan” khá suôn sẻ. Một tuần sau, tôi ra điểm trường nhận lớp. Ban giám hiệu phân công tôi dạy lớp Ba, nhận nhiệm vụ xong tôi ra về. Sáng hôm sau đến dạy. Hỡi ơi, ngoài sức tưởng tượng và suy nghĩ bấy lâu nay của tôi. Lớp có ba mươi học sinh, 21 nam, 9 nữ. Trang phục tổng hợp đủ sắc màu: quần dài, quần cụt, áo thun, áo ngắn... đều có đủ. Đặc biệt nhất là đa số đi chân đất. Tôi hỏi vì sao? Các em bảo không quen mang dép. Phần lớn cha mẹ các em đều làm nghề muối và nuôi trồng thủy sản, đi chân đất không à. May mắn nhất nơi tôi ở trọ có chị Sương, vợ anh Tiên dạy cùng trường. Gặp khó khăn gì anh chị đều tận tình giúp đỡ. Mọi người trong gia đình ai cũng gọi tôi bằng cái tên “Cô mới”. Cái thương hiệu ấy tồn tại cho đến ngày tôi rời xa. Tôi tập làm quen dần với cuộc sống hiện tại, rũ bỏ hết thói quen tự do thời tuổi trẻ. Bắt đầu hoà mình vào cuộc sống mới để trưởng thành. Lúc rảnh rỗi tôi thường qua nhà chị Sương chuyện trò hủ hỉ. Chị nói anh Tiên trước đây học giỏi lắm. Lên Mỹ Tho trọ học, đậu tú tài đôi. Xong rồi lên thẳng Sài Gòn học Đại học Khoa học được một, hai năm rồi nghỉ về phụ giúp gia đình làm nghề muối. Cả tuần anh ở ngoài ruộng muối, có lúc nửa tháng mới về một lần. Hoặc có chuyện chi đặc biệt mới về thôi. Cứ suốt ngày quần quật ở miết ngoải à. Nhà Bác Hai có chừng năm mươi công ruộng muối nằm sát bên con Khém Lớn. Nguồn nước biển ở đây dồi dào, thuận tiện cho nghề làm muối. Anh Tiên cất một cái chòi nhỏ lợp lá dừa nước, cột kèo, đòn tay đều làm bằng thân cây đước thẳng tắp. Phần chính của căn chòi rộng chừng 20m2, thêm cái chái bếp để nấu nướng và nhà tắm phía sau. Thứ Bảy, Chủ nhật nghỉ dạy tôi hay theo chị Sương ra đây thăm anh. Chủ yếu tiếp tế gạo, rau củ quả. Và một số vật dụng linh tinh khác.
Công việc làm muối hết sức vất vả, người anh khô ráp, da đen không thể nào đen hơn được nữa. Chỉ có hàm răng trắng tinh như màu muối mà thôi. Tôi và chị Sương phụ dọn dẹp, cơm nước, làm vài ba việc vặt vãnh. Hai cái khạp da bò trung trung dùng để đựng nước. Nước ngọt ở đây rất khan hiếm, hàng tuần mới đổi nước một lần. Nước ngọt chủ yếu dùng để nấu cơm, súc miệng. Còn việc tắm rửa chỉ có một ca dội lại sau khi tắm là xong. Dưới cái nắng như thiêu như đốt của ánh mặt trời chân trần, đầu đội nón lá rách còn phân nửa vành che vừa kín đầu. Những vết loang của muối như muốn thâm kim lên phận người diêm dân bé nhỏ này. Buổi chiều, sau khi cơm nước xong tôi ngồi lân la nghe anh kể chuyện. Giọng anh rề rà, xa xăm chân chất của người dân miền biển. Nghề làm muối này lưu truyền từ đời ông cố anh đến bây giờ. Anh là người có trách nhiệm phải nối nghiệp thôi. Gốc gác, dòng họ anh người Quảng Ngãi ở đó có làng muối Sa Huỳnh lâu đời lắm rồi. Sau cuộc Nam tiến đi bằng ghe bầu vào đây. Tính ra cũng được bốn đến năm đời rồi đó. Ngồi say mê nghe anh kể từng công đoạn làm muối, sao mà gian nan vất vả quá chừng! Mỗi ô ruộng muối thường có độ dài 30 - 40 tằm, rộng chừng 7-8 tằm. Nền sân nén chặt cứng, người ta dùng con lăn, lăn đi lăn lại nhiều lần phẳng lì mới thôi. Mặt sân ruộng muối có độ nghiêng để khi dẫn nước, tháo nước ra dễ dàng. Nước bơm vào ruộng trải qua 5 - 6 công đoạn mới giữ lại để lấy muối. Thông thường, khoảng 10 - 15 ngày mới thu hoạch muối. Cực khổ thì khỏi nói rồi. Nhưng vui thì vui hết biết. Già trẻ, gái trai đều ra ruộng muối. Người cào, người xúc nhanh tay liên hồi. Mấy chị em nữ thì dùng xe cút kít, đẩy muối lên dãy nhà lợp lá, ở trên đê. Những thanh niên trai tráng xúc vào cần xé, vác lên vai đổ thành đống cao ngất. Mỗi đống chừng vài trăm giạ. Xong xuôi, dùng tàu lá dừa nước đậy kín, chờ ngày chở đi tiêu thụ. Phía bên kia, mấy dãy ruộng muối vừa thu hoạch xong. Các em nhỏ tận dụng làm sân đá banh. Đội quân hùng hậu được chia ra làm hai phe rõ ràng, có trọng tài hẳn hoi. Phe quần đùi áo số đủ sắc màu, phe còn lại ở trần để dễ phân biệt. Tiếng còi trọng tài thổi liên tục, nhắc nhở cầu thủ thi đấu nghiêm túc, đúng luật, đừng vi phạm lỗi. Âm thanh vang dội cả một góc trời. Hàng năm, gia đình anh thu hoạch được vài trăm giạ, nhưng giá muối lên xuống thất thường. Đời diêm dân cũng lên xuống theo. Rồi anh cười đùa chế thơ: “Nội nói lúc nội còn con gái Giá muối quê mình đã lên xuống bấp bênh”.
Xong mùa muối, đâu cũng vào đó. Bởi mọi thứ đều quy đổi từ muối ra tiền. Tiền thuê nhân công, tiền ăn, tiền học cho con cái, tiền sinh hoạt cho gia đình, tiền hiếu hỷ ma chay, giỗ chạp... Tất tần tật đều từ muối. Sau mỗi mùa muối, được nghỉ ngơi vài tuần anh cho sửa sang lại thành vuông nuôi tôm quảng canh. Lòng cũng nhàn hạ theo từng con nước rằm và nước ba mươi. Thu hoạch cá tôm cũng đắp đổi qua ngày. Dư dã chút đỉnh sắm sửa đồ đạc áo quần cho sắp nhỏ. Anh đưa tay lên lấy bình trà, châm vào ly nhấp giọng. Cuộc sống là vậy mà “Trời sinh voi, sinh cỏ” cái vòng quay của đất trời. Cứ nhặt thưa đều đặn, tình tang muôn thuở như biển trời mênh mông. À quên! Muối cũng đa dạng có nhiều loại lắm: Muối hồng, muối đen ở tận Hy mã lạp sơn. Những mỏ muối được hình thành từ hàng triệu năm trước. Muối viên xông khói, muối tre ở Hàn Quốc... nào là muối tinh luyện, muối khoáng, muối bọt, muối dược liệu... nhiều vô kể. Anh còn làm thơ nghĩ cũng hay hay: “Muối hồng, muối tre, muối đen. Không bằng muối trắng thiên nhiên quê mình”. Rồi anh cất lên một nụ cười sảng khoái. Đêm Thạnh Phước gió lùa vào trời khuya hơi lành lạnh. Người diêm dân chà đôi chân vào nhau, leo lên giường ngủ một giấc ngon lành. Tôi hoài nghi mang theo ước mơ của họ vào ngày mai theo về thị xã.
Năm 1994, tôi rời xa nơi này sau mười năm dạy học. Những viễn cảnh tương lai đang mập mờ đâu đó, chưa định hình rõ rệt. Nhưng tôi tin rằng thế hệ trẻ sẽ có niềm tin và bước đi vững chải. Để thay đổi cuộc sống của quê hương mình. Năm rồi, trong một chuyến đi tham quan. Khu du lịch “Người giữ rừng” ở Thạnh Phước. Đối với tôi, mọi thứ ở nơi đây thay đổi khác thường sau ba mươi năm trở lại. Con đường trải nhựa rộng thênh thang chạy dài tít tắp. Nhà cửa hai bên đường mọc lên san sát. Những dãy ruộng ngày xưa bây giờ thành mặt tiền, dãy phố, có nhiều biệt thự nguy nga kiến trúc hiện đại đủ sắc màu. Tôi ngạc nhiên, tôi lạ lẫm. Và tôi mừng vui trước sự đổi thay của miền đất này. Lòng cứ dậy lên niềm chộn rộn, xôn xao khó tả, tâm trí cứ lâng lâng khác thường! Và tôi nhớ đến ngày xưa, nhớ đến Bác Hai, nhớ đến gia đình anh Tiên và nhớ đến những người quen của tháng ngày xưa cũ. Tôi lân la, ra góc đường Đê Đông, hỏi thăm về Bác Hai và anh. Gọi bác xe ôm đưa tôi đến thăm gia đình, cách nơi đó vài cây số. Buổi trưa nắng gắt nhưng gió từ biển cứ thổi lên râm ran mát rượi. Bác xe ôm dừng lại chỉ tay về phía ngôi nhà hai tầng, có hàng rào, khuôn viên bao quanh. Ngộ hén, người dân quê thường sơn tường nhà màu rực rỡ. Ấn tượng như những vườn hoa trang trí ở công viên thành phố. Trước mắt tôi, căn nhà màu tím, giàn bông giấy màu trắng vắt qua cổng rào. Dừng lại một, lúc rồi cất tiếng gọi. Người đàn ông đứng tuổi, mái tóc hoa râm bước ra hỏi thăm: Cô tìm ai? Dạ! Tôi tìm nhà anh Tiên, chị Sương. Ông nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên rồi từ tốn hỏi thêm. Cô là ai? Dạ em là người bốn mươi năm về trước ở trọ nhà Bác Hai. Cô giáo mới” đây nè! À lên một tiếng thật to, rồi lật đật mở cổng. Vào đi nói chuyện sau. Anh gọi to ra phía hông nhà. Sương ơi, Sương ơi có khách... Khách quý nhen. Chị xuất hiện, đúng là chị Sương rồi. Trông chị không khác ngày xưa, dáng thấp đậm người, có da, có thịt hơn hồi trước. Tôi không uống được trà nên chị với tay lấy chai nước lọc trong tủ lạnh mời tôi.
Câu chuyện cứ rôm rả kéo dài. Cái gì cũng ngày xưa... ngày xưa. Ngày xưa nghèo, ngày xưa khổ, ngày xưa thiếu thốn vô cùng, cái của ngày xưa một thời xa vắng. Hai đứa con của anh chị cũng đã ngoài bốn mươi rồi. Thằng Đức giờ sống tại TP. Hồ Chí Minh, hai vợ chồng đều làm bác sĩ. Có mở phòng mạch tư, lâu lâu cũng về thăm. Còn Hạnh lấy chồng ở thị trấn Bình Đại, cả hai đều làm giáo viên. Cuối tuần dẫn cháu ngoại về thăm, cứ đều đặn như vậy. Từ hồi đó đến giờ. Trừ những trường hợp đặc biệt mà thôi. Hỏi thăm Bác Hai, anh bảo đã mất mấy năm rồi. Tôi ngậm ngùi nhớ thương, thương nhớ về một miền kỷ niệm thuở ban đầu. Thấy tôi buồn buồn, anh Tiên lớn giọng cắt ngang dòng suy nghĩ. Cuộc đời mà em, nó cứ trôi, trôi qua như một định mệnh khiến người ta hụt hẫng, lao đao, rồi âm thầm chấp nhận. Để tồn tại và phát triển. Anh cũng vậy, giá như hồi đó sự học không dang dở thì cuộc đời bây giờ lại khác. Biết có gặp chị Sương của em không? Số phận đóng cánh cửa này, thì mở ra cho ta cánh cửa khác. Cơ ngơi và căn nguyên hạnh phúc, đâu có được như bây giờ. Nói gọn lại cuộc đời của anh bắt đầu từ muối, lớn lên sống chết cùng muối. Muối quý hơn vàng là vậy đó. Cơ sở sản xuất muối của anh chị vẫn ổn định. Hàng chục nhân công luôn đồng hành cùng gia đình. Thằng Đức nói độ chừng mươi năm nữa sẽ về tiếp quản cơ ngơi này, anh cũng ráng chờ chớ biết làm sao? Hy vọng một ngày không xa nó sẽ trở về. Trở về để bảo vệ cái “di sản” mà ông cha để lại, như mặc định sẵn từ bao giờ. Tôi thấy sóng mắt mình cay cay, từ đời này qua đời khác họ phải luôn luôn đánh đổi, hy sinh để thực hiện ước nguyện của nghề làm muối. Chị Sương hồ hởi, khều tay tôi, nhỏ ra chị chở đi thăm trường cũ. Chừng năm phút sau thì đến nơi, một ngôi trường khang trang rộng lớn hiện ra trước mắt. Học sinh đang giờ ra chơi tạo nên một không gian vui vẻ, rộn ràng. Những bộ đồ đồng phục tươm tất và đẹp mắt. Ngôi trường mang tên Trà Thị Cụt, người con của quê hương Thạnh Phước. Nữ anh hùng lực lượng vũ trang đã hy sinh tại nơi đây. Ngôi trường được khánh thành vào ngày 22-3-2022 do Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương - Hoa Kỳ tài trợ. Lòng tôi lâng lâng niềm hạnh phúc. Một tương lai phía trước đang rộng mở chào đón các em. Thêm một tin vui ngày 2-10-2024. Tỉnh tổ chức khởi công xây dựng cầu Ba Lai 8 nối liền Ba Tri - Bình Đại trên tuyến đường ven biển Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Dự kiến cung đường này sẽ băng qua xã Thạnh Phước quê anh. Một niềm vui không tưởng. Thử hỏi có ai dám tin không? Khi một con đường quốc lộ chạy xuyên qua vùng đất đầy hứa hẹn. Niềm mơ ước ngàn đời đã được thắp sáng bởi những ý tưởng vĩ đại, của những con người hiện đại trong thế kỉ 21. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh phát triển về hướng Đông. Như một luồng gió mới thổi bùng lên những khát vọng ngàn đời. Ánh sáng của niềm tin sẽ lan tỏa khắp miền châu thổ. Không xa nữa, một ngày gần đây thôi miền đất hoang vu này sẽ rộn ràng khởi sắc. Những câu chuyện cổ tích của đời người cứ trôi qua thầm lặng, mỏng manh như sợi tơ trời buộc chặt vào số phận của con người. Bao dòng suy nghĩ cứ chồng xếp lên nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mùi muối mặn đã ăn sâu vào tâm hồn. Cứ lặng lẽ rồi mơn man chập chờn sâu lắng. Thú thật tôi chỉ dám mượn năm từ, lời của một bài hát để tiếp sức cho bài ký này. Tri ân thôi chưa đủ “Tình sâu mấy nghĩa nặng”. Đối với một nghề đáng lẽ phải được tôn vinh từ lâu. Để những người đi xa như tôi, như bạn và như nhiều người khác nữa. Ai đi xa cũng trở về. Về với quê hương, về với cánh đồng muối trắng. Để thét gào và trân trọng những con người xứ biển kiên trung. Chia tay tôi, anh Tiên còn nói với theo “Cô giáo mới, biết trở về thăm bà con, hay hen”. Vâng! Tôi về. Nơi này làm sao mà quên được. Tôi về để dẫn dắt miền ký ức, đi “Tìm âm vang sóng vỗ” của lòng yêu thương. Màu nắng cuối ngày dịu xuống, hoàng hôn cúi sát mặt người. Nhìn về phía cánh đồng muối lòng rưng rưng một nỗi niềm khôn tả. Đưa bàn tay lên vẫy những xôn xao đang thắc thỏm ngóng chờ, tôi tin nơi này có thể!
Song Phố
Nguồn: https://baodongkhoi.vn/noi-long-ta-nghia-nang-tinh-sau-30062025-a148927.html
Bình luận (0)