Với 442/443 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành sáng 27/6, Quốc hội chính thức thông qua dự thảo Nghị quyết về điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1.
Tổng mức đầu tư dự án ban đầu là 21.551 tỷ đồng, trong đó, nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 là 17.124 tỷ đồng (ngân sách trung ương 12.144 tỷ đồng, ngân sách địa phương 4.980 tỷ đồng; trong đó: tỉnh Đồng Nai 2.969 tỷ đồng và TP.HCM 2.011 tỷ đồng).
Ngoài ra, nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2026-2030 là 4.427 tỷ đồng.

Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi (Ảnh: Media Quốc hội).
Trước đó, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội về sự cần thiết điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án nhằm sớm hoàn thành, đưa dự án vào vận hành, khai thác để đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương có dự án đi qua.
Đối với mức tăng tổng mức đầu tư thêm 3.714 tỷ đồng, một số ý kiến đại biểu cho là rất lớn, Ủy ban cho biết, mức tăng này là giá trị chênh lệch giữa tổng mức đầu tư đề nghị điều chỉnh và sơ bộ tổng mức đầu tư được Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 59/2022/QH15.
Trong đó, sơ bộ tổng mức đầu tư điều chỉnh được xác định cho từng dự án thành phần trên cơ sở tổng hợp kết quả thực tế triển khai và lập khái toán một số chi phí còn lại chưa phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Cụ thể, về chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được tổng hợp trên cơ sở báo cáo của các địa phương đối với từng dự án thành phần, gồm: kết quả phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho từng hộ/tổ chức; kết quả phê duyệt dự toán chi phí di dời hạ tầng kỹ thuật; dự kiến các chi phí còn lại và chi phí dự phòng.

Cao tốc Biên Hoà Vũng Tàu.
Về chi phí đầu tư xây dựng được tổng hợp từ chi phí đầu tư xây dựng của ba dự án thành phần theo quy định hiện hành, trong đó có: chi phí xây dựng, thiết bị được tổng hợp từ kết quả phê duyệt dự toán các gói thầu xây lắp theo đơn giá chi tiết công bố của địa phương.
Đối với các hạng mục chưa phê duyệt (hạng mục giao thông thông minh ITS, trạm thu phí không dừng ETC, bổ sung trạm cân tải trọng xe, bổ sung nút giao với đường tỉnh 991 được xác định theo khối lượng thiết kế sơ bộ và tham khảo suất đầu tư các dự án tương tự đã và đang triển khai.
Ngoài ra còn có: chi phí quản lý dự án, tư vấn và chi phí khác đã được các chủ đầu tư phê duyệt từng hạng mục chi phí nên tổng hợp kết quả phê duyệt để chuẩn xác chi phí này; chi phí dự phòng các hạng mục đã phê duyệt tính 5% để phù hợp với bước lập dự toán, các hạng mục chưa phê duyệt tính 10% theo quy định; cập nhật dự phòng trượt giá theo tiến độ giải ngân thực tế và chuỗi chỉ số giá bình quân của các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2024.
Tuyến cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu được đầu tư với tổng chiều dài gần 54km. Điểm đầu tại tuyến tránh QL1 thuộc TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Điểm cuối tại QL56 thuộc TP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Dự án được chia thành ba dự án thành phần. Trong đó, dự án thành phần 1 (Km 0+000 - Km 16+000) dài 16km trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đầu tư quy mô bốn làn xe.
Dự án thành phần 2 (Km 16+000 - Km 34+200) dài hơn 18km trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đầu tư quy mô 4 - 6 làn xe (tùy từng đoạn).
Dự án thành phần 3 (Km 34+200 - Km 53+700) dài 19,5km nằm trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đầu tư quy mô bốn làn xe.
Theo kế hoạch, dự án sẽ cơ bản hoàn thành năm 2025, đưa vào khai thác đồng bộ năm 2026.
Áp dụng 7 cơ chế, chính sách đặc thù làm đường vành đai 4 TP.HCM
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP.HCM với đa số đại biểu có mặt tán thành.
Quốc hội cho phép dự án được áp dụng 7 cơ chế, chính sách đặc biệt, trong đó có các chính sách như: Về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ dự án: trong thời gian thực hiện dự án, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng.
Cho phép chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, phi tư vấn, tư vấn lập điều chỉnh quy hoạch phục vụ dự án (bao gồm khu tái định cư), các gói thầu thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư, thi công xây dựng hạ tầng khu tái định cư để phục vụ giải phóng mặt bằng.

Dự án đường Vành đai 4.
Cho phép các cầu từ công trình cấp II trở lên và các nút giao thông trong đô thị thuộc dự án xây dựng đường Vành đai 4 TP.HCM không phải thi tuyển phương án kiến trúc.
Cho phép dự án không phải thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức PPP.
Trong thời gian Quốc hội không họp, Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án.
Theo Nghị quyết, dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 TP.HCM dài 159,31km chia thành 10 dự án thành phần. Dự án áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại, bảo đảm yêu cầu về an toàn, đồng bộ, chất lượng và hiệu quả, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong tổ chức thi công, thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện hình thức thu phí điện tử không dừng trong khai thác, vận hành.
Sơ bộ nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 1.421 ha. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư một lần theo quy mô quy hoạch. Sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án khoảng 120.413 tỷ đồng bao gồm khoảng 29.688 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách trung ương; khoảng 40.093 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách địa phương; vốn do nhà đầu tư huy động khoảng 50.632 tỷ đồng.
Dự án được chuẩn bị đầu tư, thực hiện từ năm 2025; hoàn thành công trình đưa vào vận hành, khai thác trong năm 2029. Các dự án thành phần đầu tư theo phương thức đối tác công tư, loại hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) được áp dụng cơ chế bảo đảm đầu tư, cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Trong báo cáo tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết trước khi các đại biểu bấm nút thông qua, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi làm rõ các ý kiến đề nghị cần có phương án thi tuyển hoặc lựa chọn mẫu thiết kế cầu, nút giao thông phù hợp, tránh tình trạng chỉ định thiếu cạnh tranh, thiếu hiệu quả. Ông Phan Văn Mãi cho biết, việc tổ chức thi tuyển kiến trúc theo quy định hiện hành mất khoảng 6-12 tháng, nên không bảo đảm tiến độ, mục tiêu cấp bách của dự án.
Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách về việc không phải thi tuyển phương án kiến trúc đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với một số dự án quan trọng quốc gia thời gian qua, do đó, đề xuất của Chính phủ là phù hợp.
Dự án đường Vành đai 4 có tốc độ thiết kế 100km/h, quy mô 8 làn xe cao tốc; tổng bề rộng nền đường (bao gồm đường cao tốc và đường song hành) 74,5m.
Giai đoạn 1, đầu tư phân kỳ với quy mô 4 làn xe, tốc độ thiết kế 100km/h, bề rộng nền đường 25,5m; đầu tư đường song hành, đường gom hai bên tuyến đường bộ cao tốc tại các vị trí qua khu dân cư, khu đô thị.
Giai đoạn hoàn chỉnh đầu tư với quy mô 8 làn xe cao tốc, tổng bề rộng nền đường 74,5m; đầu tư đồng bộ đường song hành quy mô tối thiểu hai làn xe.
Nguồn: https://vtcnews.vn/quoc-hoi-dong-y-tang-hon-3-700-ty-dong-dau-tu-cao-toc-bien-hoa-vung-tau-ar951298.html
Bình luận (0)