Bà Triệu Thị Dung đang dệt vải chàm bằng khung cửi truyền thống của người Tày. |
Khi nghề truyền thống bị mai một
Cũng giống như nhiều bản người Tày ở Thái Nguyên, tiếng khung cửi từng là âm thanh quen thuộc, là nhịp sống gắn liền với hình ảnh những người mẹ, người bà cần mẫn, dịu hiền ở Pác Ngòi. Theo thời gian, khung cửi ngày một thưa vắng, lặng lẽ rơi vào hoài niệm.
Bên chiếc khung cửi đã ngả màu thời gian, bà Triệu Thị Dung vừa liên tay dệt vải, vừa ngân nga hát ru em bé phía sau lưng. Tiếng hát êm êm hòa cùng tiếng kẽo kẹt như đưa khách lạ quay trở về rất nhiều năm về trước. Khi đó, vải vẫn còn rất hiếm, để mua được không hề dễ, chính vì vậy hầu như gia đình người Tày nào cũng có khung cửi.
Theo bà Dung, dệt vải không chỉ là một kỹ năng lao động mà còn là một nét văn hóa truyền đời của đồng bào dân tộc Tày. Những sản phẩm thổ cẩm như: Áo chàm, khăn đội đầu, khăn trải bàn, chăn, túi… không chỉ phục vụ sinh hoạt thường ngày mà còn gắn bó với các phong tục, nghi lễ truyền thống. Người con gái Tày xưa được dạy dệt từ khi còn nhỏ, để đến tuổi trưởng thành có thể tự tay dệt vải may váy áo cưới, dệt chăn màn cho gia đình mới.
Để tạo nên một tấm vải, phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ. Ban đầu là trồng bông. Khi bông phủ trắng cánh đồng, người ta hái về phơi khô, tách hạt rồi bật bông cho tơi, sau đó se thành sợi. Sợi sau khi được se kỹ sẽ đem đi nhuộm chàm. Mỗi gia đình thường có một chum chàm ủ sẵn để nhuộm vải. Công đoạn nhuộm đòi hỏi sự kiên trì: Phải nhúng sợi nhiều lần, phơi khô rồi lại nhúng tiếp, lặp đi lặp lại để có màu chàm bền và đều. Sau cùng là công đoạn dệt trên khung cửi thủ công bằng tay rất cẩn thận và khéo léo.
Bà Dung chia sẻ, nhiều bước như vậy nên ngày xưa cả năm chỉ dệt được 6-7 bộ quần áo hoặc 3-4 cái vỏ chăn. Với người phụ nữ ngày ấy, dệt vải không chỉ để làm ra các đồ dùng mà còn gửi gắm nhiều tình cảm. Các bà, các mẹ dệt vải cho chồng, con có tấm áo lành, nhà có chăn ấm. Những cô gái trước khi đi lấy chồng phải chuẩn bị cả năm, bởi lẽ ngày về nhà trai, mỗi người phải mang theo: Bộ quần áo Tày, vỏ chăn, màn... Quan trọng như vậy, nên dệt vải đẹp là một trong những điều mà các cô gái Tày ngày xưa phấn đấu và tự hào.
Để chúng tôi tìm hiểu kỹ hơn về nghề dệt, bà Dung nhiệt tình đưa ra khoảng sân lớn của Nhà Văn hóa Pác Ngòi, nơi mà người hàng xóm (bà Dương Thị Lan) đang cẩn thận phơi mẻ sợi mới luộc hôm qua. Bà Lan cười hiền: Tôi bỏ dệt vải được một thời gian dài đấy, vì thấy vải mua dễ, lại rẻ. Nhưng mỗi khi gặp ai trong làng đang ngồi dệt vải lại thấy buồn nên đặt làm chiếc khung cửi mới.
Khoảng hơn 20 năm trở lại đây, dệt vải ở Pác Ngòi dần mai một. Trong câu chuyện với chúng tôi, các bà bảo rằng nghề dệt cần sự tỉ mẩn, nếu tập trung thì sẽ làm được rất nhanh, nhưng ít người chịu học vì dệt mất thời gian mà làm ra sản phẩm tìm chỗ bán khó và không được giá.
“Ngày trước hầu như nhà nào cũng có khung dệt, nhưng giờ thì chỉ còn lác đác vài hộ giữ nghề”, bà Dung cất giọng đầy tiếc nuối. Hiện nay, Pác Ngòi có gần 100 hộ dân nhưng chỉ còn 9 chiếc khung cửi.
Khôi phục nghề từ du lịch cộng đồng
Không muốn để tiếng khung cửi mãi rơi vào hoài niệm, những người dân và chính quyền địa phương đang nỗ lực khôi phục nghề dệt, bắt đầu từ chính thế mạnh du lịch cộng đồng của bản làng. Năm 2022, tại xã đã diễn ra lớp bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trong danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia “Nghề dệt thủ công truyền thống của người Tày" với sự tham gia của gần 30 học viên. Lớp học đã hỗ trợ mua thêm khung cửi và hướng dẫn bà con dệt một số sản phẩm quà tặng phù hợp với nhu cầu của khách du lịch.
Phơi sợi là bước chuẩn bị quan trọng trong nghề dệt truyền thống. |
Hiện nay, các hộ dân của thôn Pác Ngòi vẫn đang duy trì, giới thiệu nghề dệt thủ công truyền thống và thu hút khách du lịch đến trải nghiệm. Nhiều homestay đã sử dụng trang phục chàm và sản phẩm dệt thủ công trong trang trí và trải nghiệm du lịch. Điều này giúp du khách hiểu về nghề dệt truyền thống và tạo đầu ra cho sản phẩm.
Ông Phạm Ngọc Thịnh, Chủ tịch UBND xã Ba Bể cho biết: Dệt thủ công truyền thống của người Tày ở Pác Ngòi đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014.
Hiện nay, UBND xã Ba Bể tiếp tục chỉ đạo cơ quan chuyên môn vận động bà con duy trì nghề dệt, nghiên cứu, tìm hiểu và dệt những sản phẩm vừa mang tính truyền thống mà vẫn phù hợp với thị hiếu, nhu cầu của du khách để phục vụ du lịch tại địa phương. Khuyến khích những người có tay nghề truyền dạy lại cho các thế hệ trẻ để gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Đồng thời, kết nối với các chương trình hỗ trợ phát triển OCOP, du lịch cộng đồng để tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm.
Tại Homestay Ba Bể Green ở bản Pác Ngòi, ngoài không gian thơ mộng thì góc nhỏ nơi để khung cửi cũng thu hút đông đảo du khách ghé thăm và trải nghiệm. Được biết đây là khung cửi của chị Triệu Thị Đầm (37 tuổi). Là người dân tộc Tày, chị Đầm cũng biết dệt vải từ khi lên 15 tuổi, nhưng cũng có một thời gian dài chị không theo nghề. Đến năm 2020, chị mới đặt làm chiếc khung cửi mới gần 4 triệu đồng và gắn bó lại với dệt vải từ đây.
Chị Đầm chia sẻ: Khi bắt đầu làm homestay, thấy khách nước ngoài rất thích đồ thủ công, nên tôi bắt đầu dệt lại để trang trí và bán. Mỗi tháng cũng bán được vài món, chủ yếu là khăn và túi nhỏ. Nhưng phấn khởi hơn cả là du khách trong và ngoài nước khi thấy khung cửi đều rất thích, muốn tìm hiểu thêm về nghề dệt truyền thống của đồng bào dân tộc Tày.
Dẫu còn nhiều khó khăn, khi các sản phẩm như túi, ví, khăn tay… chỉ bán được với số lượng ít, giá trung bình khoảng 200 nghìn đồng một chiếc, nhưng những người phụ nữ Tày nơi đây vẫn không thôi hy vọng. Họ mong nghề dệt truyền thống sẽ không chỉ dừng lại trong khuôn khổ gia đình hay vài gian hàng nhỏ lẻ, mà sẽ từng bước vươn ra xa hơn, gắn với du lịch, thương mại, trở thành sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Nguồn: https://baothainguyen.vn/van-hoa/202508/tieng-khung-cuivang-trong-long-ban-cu-1f330ec/
Bình luận (0)