
Có dịp lên vùng cao trải nghiệm đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, dễ nghe đâu đó những câu chuyện cổ lưu lại dấu xưa về mối dây vô hình nối kết núi rừng với biển cả. Như hãy ngồi nhìn phụ nữ Cơ Tu dệt thổ cẩm, từng hạt cườm trắng lấp lánh dệt thành sóng nước, vòng xoắn, lá trầu, mặt trời... Còn khi lên sát biên giới Việt - Lào, nghe người Giẻ Triêng ví von những vòng tròn đồng tâm trên họa tiết hoa văn là hình ảnh của cơn lốc xoáy giữa mặt biển và thung lũng núi. Với người Xê Đăng gửi gắm dòng chảy về cội nguồn trong họa tiết kram hình đuôi cá, gợi nhớ sự sống khởi đi từ biển lớn, sông hồ.
… như âm vang sóng biển
Trong “ngôn ngữ tạo hình” trên màu sắc thổ cẩm, một cách phổ biến thì màu đen tượng trưng cho đất rừng, vàng cho khát vọng, đỏ cho mặt trời và sự sống, chàm cho cây cỏ, còn trắng gợi sự tinh khôi. Tùy bàn tay khéo léo mà mỗi thiếu nữ phối màu, dệt hoa văn thành một câu chuyện riêng. Có tấm vải kể về làng, có tấm nhắc đến tổ tiên, có tấm tái hiện cả vũ trụ quan. Tất cả như một “dòng sông ký ức”, trong đó biển lặng lẽ chảy qua kẽ tay, thấm trên từng sợi chỉ.
Ở Trà My, người Co, Ca Dong hay Xê Đăng thường dệt răng cưa, tam giác, ô trám. Những đường nét ấy gợi liên tưởng đến sóng vỗ, mặt hồ loang loáng, hay những con nước đỏ - đen cuộn vào nhau. Ngay cả ở những cộng đồng ít gắn với biển, như người Mường mới di cư từ Bắc vào Trà My, trên cầu thang gỗ cũng xuất hiện vài hoa văn sóng, như dấu vết của sự giao thoa văn hóa.
Nhiều lần dự hội của đồng bào vùng cao, khi chiêng trỗi dậy và điệu múa tâng tung da dá xoay vòng quanh sân gươl, hoa văn trên váy áo như chuyển động. Tôi cảm nhận như sóng không chỉ hiện trên tấm vải, mà dội lên trong thanh âm, trong bước chân, trong lời ca cổ xưa: “Biển ơi xa lắm/ núi cao ngăn lối/ con vẫn mơ ngày/ về nghe sóng vỗ…”. Có lời hát của người Co “đàng nước” ở Trà My cũng mang mang như niềm ấy, tựa hồ nỗi nhớ biển đã neo lại trong tâm thức núi rừng.
.jpg)
… như con thuyền giữa đại ngàn
Không giống như người Kinh thường chạm khắc rồng phượng trên đình chùa để biểu trưng quyền lực, các cộng đồng Trường Sơn lại ký thác vũ trụ quan, nhân sinh quan vào từng tấm vải, chiếc gùi, mái gươl... Sóng biển, vầng trăng, mặt trời, cơn mưa, hạt lúa - tất cả đều có thể hóa thành hoa văn.
Nếu thổ cẩm là tấm vải kể chuyện, thì gươl và nhà dài giống như những “cánh buồm” giữa gió ngàn. Mái gươl Cơ Tu vút cong như buồm no gió, cột cái, cột con chạm khắc hổ, chim, cá, sóng nước. Bước vào gươl làng Pơning hay làng Arớh ở vùng núi cao Đà Nẵng, có cảm giác như đi vào lòng một con thuyền khổng lồ neo giữa đại ngàn. Tôi tưởng tượng về ngày hội làng đầu tiên sau thuở hồng hoang, khi chiêng vang ngân, gươl biến thành con thuyền chở hồn người vượt qua núi rừng, như vươn về những con sóng ở phía chân trời xa xăm.
Có dịp qua Tây Nguyên, tôi cảm nhận nhà dài Ê Đê cũng mang hơi thở biển. Cầu thang khắc đôi bầu vú và vầng trăng khuyết - vừa biểu tượng cho sự sinh sôi, vừa như những con sóng trăng dội trên mặt nước, lại liên tưởng thủy triều lên xuống. Trong không gian ấy, quyền uy của người phụ nữ gắn liền với nhịp sống của cộng đồng, tựa như biển cả nuôi dưỡng và che chở.
Tại Trà My, nhà làng của người Co, Ca Dong, Xê Đăng lại mang dáng dấp bè gỗ vượt suối. Đầu hồi khắc sóng lượn, chim cá; mái tranh dày trông như thân thuyền chống chọi với những cơn lũ, mưa gió từ nguồn xuống biển.
Và ký ức vọng về…
Các nhà nghiên cứu cho rằng, tổ tiên của nhiều nhóm cư dân Trường Sơn vốn từ miền duyên hải ngược sông lên núi. Ký ức về biển có thể hằn sâu trong tâm thức và tiếp tục sống trong hoa văn, lời ca, truyền thuyết. Nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương từng nhấn mạnh, văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Mã Lai đa đảo, với những dấu vết biển hiện diện trong ngôn ngữ, kiến trúc và cả huyền thoại.
Nhưng biển trong tâm thức núi rừng có lẽ là khát vọng hướng tới của con người phóng khoáng, rộng mở, bao dung, nhìn về phía bất tận. Khi dệt một vòng xoắn ốc, người Giẻ Triêng như tái hiện nhịp thở của sóng. Khi khắc hình cá hay con thuyền, người Cơ Tu hay người Co, hẳn muốn gửi gắm ước mơ vươn về sông suối và biển cả.
Và trong ánh lửa những đêm hội, khi người người nhấp nhô theo điệu múa giữa thung lũng bao bọc bởi núi đồi, nhìn thổ cẩm, nhìn gươl làng… trong men rượu cần, lòng lâng lâng, nhấp nhô như sóng biển đã neo vào núi.
Có lẽ, tìm biển trên núi không phải để thấy những con sóng hữu hình, mà để nhận ra cách con người gìn giữ ký ức, nối quá khứ với hiện tại, làm cho văn hóa không bị đứt gãy.
Biển không có sóng giữa đại ngàn, nhưng ẩn hiện trong hoa văn xoắn ốc, trong mái gươl vươn như cánh buồm.
Dường như biển vẫn chảy trong mạch ngầm tâm thức Trường Sơn từ thời biển tiến, biển lùi…
Nguồn: https://baodanang.vn/tim-bien-tren-nui-3305717.html
Bình luận (0)