
Mỗi người một sở thích, một việc làm, song tất cả đều hướng về mục tiêu gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa mà cha ông để lại. Rcom H’Rim (21 tuổi, buôn Mi Hoan, xã Ia Hiao, huyện Phú Thiện) đang là sinh viên năm cuối của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh. Cô gái người Jrai này vốn đam mê nấu những món ăn truyền thống của dân tộc mình. Từ nhỏ, H’Rim đã quen với mùi thơm của lá mì, vị đắng của cà rừng và hương nồng của cá suối khô.
“Ngày trước, mỗi khi mẹ nấu món lá mì xào cà đắng, em lại ngồi cạnh nhìn mẹ vò lá mì, cắt cà và chế biến. Giờ lớn lên, em làm lại món ăn này để bạn bè cùng thưởng thức. Ai chưa biết thì em chỉ, ai đã biết thì cùng nhau làm. Em muốn gìn giữ để những món ăn truyền thống của người Jrai không bị thất truyền, đồng thời giới thiệu đến với du khách gần xa”-H’Rim bày tỏ.
Không chỉ say mê với lá mì xào cà đắng, H’Rim còn đặc biệt thích món muối lá é. Theo H’Rim, đây là món ăn bình dị nhưng gói trọn hồn cốt của núi rừng Tây Nguyên. Mỗi khi nhớ nhà, em lại cùng bạn bè ra chợ mua cá khô, ớt và lá é để giã muối. Nhiều bạn ở thành phố lần đầu thưởng thức thì tấm tắc khen ngon.
Còn với Nay Gia Phúc (13 tuổi, buôn Phu Ama Nher, xã Ia Rtô, thị xã Ayun Pa), tình yêu văn hóa dân tộc lại được nuôi dưỡng qua tiếng cồng, tiếng chiêng từ thuở bé. Sinh ra trong gia đình có bố là nghệ nhân cồng chiêng nổi tiếng của xã, từ nhỏ, Phúc đã mê mẩn với những âm thanh trầm bổng của loại nhạc cụ này.
Phúc cho hay: 6 tuổi, em được bố chỉ dạy cách cầm dùi sao cho đúng, cách canh nhịp và nhớ bài. Sau đó, em tham gia lớp học cồng chiêng do bố tổ chức. Đến nay, em đã đánh thuần thục nhiều bài chiêng và thường xuyên đi biểu diễn tại các lễ hội do xã, tỉnh tổ chức, trong đó có chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tại Quảng trường Đại Đoàn Kết (TP. Pleiku).
“Bố em nói mỗi bài chiêng là một câu chuyện riêng, khi tấu lên thì đất trời, thần linh và người đã khuất sẽ lắng nghe. Sau này lớn lên, em muốn trở thành một người đánh chiêng thật giỏi như bố, rồi dạy lại cho các em nhỏ khác. Em không muốn tiếng cồng chiêng của buôn làng bị mất đi theo năm tháng”-Phúc nêu quyết tâm.

Bên cạnh những bạn trẻ mê ẩm thực, làm đồ thủ công, nhiều thanh niên dân tộc thiểu số còn giữ gìn nghề ủ rượu cần. Đây là thứ men say ngọt ngào, gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt cộng đồng của người Tây Nguyên từ bao đời nay. Em Gơn (22 tuổi, làng Ar Dết, xã Đê Ar, huyện Mang Yang) là một trong những người trẻ tâm huyết với nghề ủ rượu cần truyền thống. Sinh ra trong gia đình có nhiều đời làm rượu cần, từ nhỏ, Gơn đã quen với mùi thơm của men lá, với những ché rượu xếp ngay ngắn ở góc nhà sàn.
Gơn chia sẻ: “Theo truyền thống của người Bahnar, hầu như nhà nào cũng có vài ché rượu cần để đãi khách và làm quà. Từ năm học lớp 6, em đã được mẹ dạy cách ủ rượu. Việc này không đơn giản như nhiều người vẫn nghĩ, bởi mỗi gia đình có một bí quyết riêng trong cách chọn lá rừng làm men, cách nấu cơm nếp và ủ rượu. Sau này, em thường xuyên thay mẹ ủ rượu cần cho gia đình”.
Theo Gơn, để có được ché rượu cần ngon, trước tiên phải chọn được men rượu ngon. “Công đoạn nấu cơm cũng rất quan trọng. Cơm phải là nếp nương, hạt dài, dẻo và thơm, nấu vừa chín tới rồi để nguội, trộn với men và ủ qua đêm. Sau đó, nguyên liệu được cho vào ché và đặt nơi thoáng mát, tránh ánh nắng. Sau 1 tháng, hương thơm của rượu và men lá quyện vào nhau rất đặc trưng, ai uống một lần cũng nhớ mãi”-Gơn hào hứng nói.
Gơn cũng đang ấp ủ ý tưởng thành lập một tổ nhóm thanh niên yêu văn hóa truyền thống, chuyên ủ rượu cần phục vụ du khách và quảng bá tại các sự kiện văn hóa của địa phương.
Nguồn: https://baogialai.com.vn/tuoi-tre-giu-gin-van-hoa-truyen-thong-post326366.html
Bình luận (0)