Khi nhịp trống bản làng đánh thức cả miền ký ức
“Ngày hội Mường Khô năm nay đông lắm. Thanh niên bản cũ giờ sống ở tận thành phố cũng khăn gói về đây. Người trẻ thì múa sạp, người già thì dạy mo. Trẻ con tụi nó còn thuộc cả bài cúng lúa mới...”, một già bản ở xã Điền Lư (Thanh Hoá), kể trong niềm xúc động.
Không riêng Mường Khô. Thực hiện Kết luận số 82-KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2017–2025. Trong vòng 8 năm qua, hàng loạt lễ hội cổ truyền tưởng chừng đã ngủ quên giữa nhịp sống hiện đại bỗng được đánh thức trở lại: lễ hội Mường Xia gắn với truyền thuyết thần Tư Mã Hai Đào, lễ hội Pồn Pôông, diễn xướng dân gian độc đáo của người Thái đen, lễ hội Sết Boọc Mạy, lễ hội Ca Da, lễ hội cầu mùa của người Mường, lễ hội Tết nhảy của người Dao… Những nghi lễ ấy, từng mai một bởi chiến tranh, nghèo đói, hay những biến động xã hội, nay sống lại giữa đời thường.
Ở đó, người dân không chỉ làm lễ. Họ múa, họ hát, họ cúng, họ kể chuyện. Họ truyền lại nhau những điệu ru, tiếng mo, lời khấn, tiếng chiêng… như những dòng ký ức chưa bao giờ ngưng chảy. Hội làng không còn là nơi trưng bày một bản sắc cũ kỹ, mà là không gian sống động, nơi mỗi người góp phần giữ hồn dân tộc theo cách của mình.
Nhiều nghệ nhân tuổi cao vẫn say mê truyền dạy điệu hát, cách đan lễ phục, dựng cây nêu, chuẩn bị lễ vật truyền thống. Có những già bản đi hết bản này sang bản khác để tìm lại bài mo thất truyền.
Những người trẻ dù từng ngại mặc áo thổ cẩm, nay đã sẵn sàng múa sạp, gõ chiêng, cầm chày giã cốm. Trẻ nhỏ dần học thuộc những bài dân ca trong lễ hội làng, chơi trò chơi dân gian trong Tết cổ truyền.
Trong giai đoạn thực hiện Kết luận 82-KL/TU, Thanh Hóa đã lập hồ sơ và đưa 27 di sản văn hóa phi vật thể vào danh mục quốc gia, nhiều trong số đó là các lễ hội và trò diễn dân gian. Nhưng phía sau các con số ấy là hàng ngàn con người đang cùng nhau gìn giữ một phần bản sắc dân tộc.
Không chỉ phục dựng hình thức, công tác bảo tồn ở Thanh Hóa chú trọng khôi phục tinh thần, yếu tố cốt lõi làm nên linh hồn lễ hội. Từ vai trò của thầy cúng, nghệ nhân, người dâng lễ… đến ngôn ngữ cúng tế, đạo cụ, bài khấn cổ đều được tìm hiểu, ghi chép, biên soạn và phổ biến trở lại cho cộng đồng.
Nhiều đề án thiết thực đã ra đời như: “Phục dựng và phát huy giá trị các lễ hội truyền thống tiêu biểu”, “Phát hành tài liệu truyền dạy nghi lễ dân gian”, “Số hóa lễ hội cổ truyền”… Thậm chí, đã có những hội thảo khoa học, những lớp tập huấn tổ chức tại từng xã, từng bản để truyền lại cách tổ chức lễ hội cho chính người dân địa phương.
Một nghệ nhân dân tộc Dao ở Ngọc Lặc (cũ) từng nghẹn ngào chia sẻ: “Lễ Nhàng chập đáo (Tết nhảy) từng là ký ức trong tôi, nhưng giờ thì lũ nhỏ đã biết. Tôi thấy mình không còn đơn độc nữa.”
Hội làng hôm nay – nơi “làng” gặp “thế giới”
Trong quá khứ, lễ hội truyền thống thường diễn ra âm thầm trong không gian khép kín của từng cộng đồng. Nhưng hôm nay, những hội làng ở xứ Thanh đã trở thành điểm hẹn văn hóa, nơi không chỉ cộng đồng được gắn kết, mà còn mời gọi du khách gần xa về dự phần.
Lễ hội Lam Kinh với nghi thức rước linh vị vua Lê, lễ hội đền Bà Triệu gắn với nữ anh hùng dân tộc, lễ hội Mai An Tiêm, biểu tượng về sức sống của con người xứ Thanh… đều đã được sân khấu hóa, kết nối với các tour du lịch, chương trình trải nghiệm truyền thống.
Hàng vạn du khách mỗi năm đổ về đây, không chỉ để “xem” lễ, mà còn để “sống” trong văn hóa, tự tay gói bánh, giã cốm, dựng cây nêu, mặc trang phục dân tộc, chơi trò chơi truyền thống.
Tỉnh Thanh Hóa đã khéo léo lồng ghép lễ hội vào phát triển kinh tế – xã hội: gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch cộng đồng, bảo tồn nghề thủ công. Nhiều địa phương như Quan Sơn (cũ), Quan Hóa (cũ), Ngọc Lặc (cũ), Thường Xuân (cũ)… đã biến hội làng thành dịp quảng bá sản phẩm OCOP, du lịch xanh, văn hóa bản địa.
Từ năm 2017 đến nay, hơn 100 lễ hội truyền thống được tổ chức thường niên, với hàng loạt hoạt động song hành như thi văn nghệ dân gian, trưng bày ẩm thực, tái hiện trò chơi dân gian, tọa đàm về văn hóa tộc người. Truyền hình tỉnh mở chuyên mục “Điểm đến xứ Thanh”, sản xuất phim tài liệu về hội làng. Báo chí, mạng xã hội, các nền tảng video ngắn cũng vào cuộc, biến những lễ hội cổ truyền thành xu hướng văn hóa số.
Không chỉ du khách mà người dân đã thay đổi. Họ chủ động góp đất, góp công tu sửa đình làng, sửa sân hội, dựng lại cây nêu, tìm lại bài khấn. Có những địa phương như huyện Cẩm Thủy (cũ), Lang Chánh (cũ), Mường Lát (cũ) thành lập Câu lạc bộ gìn giữ lễ hội truyền thống, với các thành viên là giáo viên, già làng, thanh niên... cùng chia sẻ trách nhiệm gìn giữ ký ức quê hương.
Thanh Hóa cũng đặc biệt chú trọng đào tạo nhân lực văn hóa: tổ chức hàng chục lớp tập huấn nghệ nhân dân gian, hướng dẫn viên lễ hội, cán bộ văn hóa xã. Hàng trăm nghệ nhân ưu tú được phong tặng và hỗ trợ truyền dạy. Các chính sách đãi ngộ, vinh danh người giữ hồn di sản cũng được áp dụng cụ thể bởi chính họ là “linh hồn” của lễ hội.
Hội làng không phải chỉ để “xem” nó để sống cùng, thở cùng, yêu cùng và tự hào cùng. Khi một làng quê có hội, ấy là khi cộng đồng có dịp ngồi lại bên nhau, nhớ về cội nguồn, chia sẻ vui buồn và bồi đắp bản sắc. Hội bản không chỉ làm sống lại ký ức, mà chính là một hình thức “giáo dục cộng đồng” sâu sắc, tự nhiên và hiệu quả nhất.
Có lẽ điều cảm động nhất không phải là những tiết mục rực rỡ trên sân khấu, mà là hình ảnh một già làng lặng lẽ bên chiếc trống cũ; một em bé tay run run chạm vào bộ trang phục tổ tiên; một người phụ nữ Mường mỉm cười khi thấy con gái mình múa điệu xưa giữa hội làng...
Ở đó, di sản không nằm trong sách vở, mà hiện diện trong từng bước chân, từng nhịp trống, từng ánh nhìn rạng rỡ của người dân quê mình.
Hội làng trở lại, không chỉ là hồi sinh một phong tục. Đó là hồi sinh hồn dân tộc.
(Còn tiếp)
Nguồn: https://baovanhoa.vn/van-hoa/bai-2-hoi-sinh-le-hoi-giu-lua-hon-lang-158894.html
Bình luận (0)