Kiến tạo thể chế văn hóa, thúc đẩy sáng tạo
Điều dễ nhận thấy trong nhiệm kỳ này là sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy phát triển văn hóa ở tầm quốc gia. Văn hóa không còn là “phần mềm” đi sau các lĩnh vực khác, mà trở thành “hệ điều hành” của toàn bộ quá trình phát triển. Chính phủ không chỉ quản lý văn hóa, mà còn kiến tạo thể chế văn hóa, thúc đẩy sáng tạo, khuyến khích xã hội hóa và đặt con người vào vị trí trung tâm.

Những bước đi đầu tiên mang tính đột phá được thể hiện rõ ở việc ban hành Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035, được hoạch định như một chương trình đầu tư quốc gia, có cơ chế đầu tư đa nguồn, có hệ thống quản trị rõ ràng, và có sự tham gia của toàn xã hội. Chương trình gồm 9 dự án thành phần - từ bảo tồn di sản, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, phát triển công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số, đào tạo nhân lực, đến quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới - phản ánh tư duy chiến lược của Chính phủ: văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần, mà là một lĩnh vực đầu tư chiến lược, có khả năng sinh lợi về kinh tế, xã hội và con người.
Cùng với đó, hàng loạt văn bản pháp luật, chiến lược và đề án lớn về văn hóa được ban hành hoặc sửa đổi, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho sự phát triển lâu dài. Các Luật Điện ảnh (sửa đổi), Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi), Luật Quảng cáo (sửa đổi), Luật sửa đổi một số luật về đầu tư, đấu thầu, PPP, hải quan, quản lý tài sản công... đều được thiết kế theo hướng bảo đảm tính thống nhất, thúc đẩy sáng tạo và tăng quyền tự chủ cho các thiết chế văn hóa. Chính phủ đã mạnh dạn đề xuất cơ chế đặc thù cho lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, cho phép chỉ định thầu hoặc đặt hàng các dự án nghệ thuật có tính sáng tạo đặc biệt, khuyến khích doanh nghiệp văn hóa tư nhân, sản phẩm sáng tạo nội địa, và bản quyền nghệ thuật Việt Nam. Đó là những bước đi cụ thể, thể hiện tinh thần “trao quyền - khuyến khích - tin tưởng” vào năng lực sáng tạo của Nhân dân và giới nghệ sĩ.
Một điểm nổi bật khác là việc điều chỉnh chức năng, phân công lại nhiệm vụ giữa các bộ, ngành, trong đó mảng báo chí, truyền thông được chuyển về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Đây không chỉ là thay đổi tổ chức, mà còn là sự định vị lại vai trò của văn hóa trong kỷ nguyên số: văn hóa là nội dung, công nghệ là công cụ, truyền thông là cầu nối. Sự kết hợp này giúp hình thành hệ sinh thái văn hóa số, nơi mà đổi mới sáng tạo, quản trị tri thức và phát triển công nghiệp văn hóa được đồng bộ hóa trong một nền tảng hiện đại.
Từ khung thể chế ấy, công nghiệp văn hóa Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Hội An, Đà Lạt tiếp nối Hà Nội gia nhập mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO. Các lĩnh vực có bước tiến mạnh mẽ gồm điện ảnh, âm nhạc, thời trang, thiết kế, nội dung số và du lịch văn hóa. Nhiều trung tâm công nghiệp văn hóa, không gian sáng tạo và khu tổ hợp nghệ thuật được hình thành tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Quảng Ninh - những “thủ phủ văn hóa mới” đang góp phần định hình diện mạo kinh tế sáng tạo Việt Nam.
Đặc biệt, Chính phủ đã chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa. Các dự án số hóa di sản, bảo tàng, lễ hội, nghệ thuật biểu diễn được triển khai đồng loạt. Những di sản nổi tiếng như Hoàng thành Thăng Long, Cố đô Huế, phố cổ Hội An, Tràng An, Văn Miếu - Quốc Tử Giám đều được số hóa 3D, ứng dụng AI, AR/VR, xây dựng bản đồ di sản số, thuyết minh đa ngôn ngữ và tương tác ảo. Đây là bước tiến lớn, đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia tiên phong ở Đông Nam Á trong việc ứng dụng công nghệ vào bảo tồn và quảng bá di sản. Nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống - từ Quan họ, Ca trù, Hát xoan, Đờn ca tài tử đến múa rối nước, hát tuồng, cải lương - được chuyển thể thành phim hoạt hình, nội dung số, giúp thế hệ trẻ tiếp cận văn hóa truyền thống bằng ngôn ngữ của thời đại.
Sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển còn thể hiện rõ trong việc UNESCO công nhận Quần thể di sản Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là Di sản văn hóa thế giới liên tỉnh thứ hai của Việt Nam (2025) trong khi đó Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Vườn quốc gia Hin Nam Nô trở thành Di sản thế giới liên biên giới đầu tiên của Việt Nam. Đây là kết quả của tầm nhìn liên vùng, liên quốc gia, liên ngành và liên kết di sản - du lịch - tâm linh - công nghiệp văn hóa. Thành công này không chỉ nâng tầm vị thế quốc tế của Việt Nam, mà còn thể hiện một triết lý mới: bảo tồn di sản không phải để cất giữ quá khứ, mà để kiến tạo tương lai. Chính phủ đã thể hiện rõ tinh thần “phát triển để bảo tồn, bảo tồn để phát triển”, kết nối giữa ký ức dân tộc và khát vọng thời đại.
Văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội
Không chỉ dừng ở chính sách, văn hóa còn thấm sâu vào đời sống xã hội như một dòng chảy mạnh mẽ của niềm tin và khát vọng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, sau hơn 20 năm triển khai, bước sang giai đoạn mới - thực chất hơn, sáng tạo hơn, gắn liền với chuyển đổi số. Hàng triệu gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị văn hóa không còn chỉ là danh hiệu, mà trở thành hạt nhân nuôi dưỡng lối sống nhân văn, trách nhiệm, tôn trọng pháp luật và lan tỏa điều tốt đẹp. Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh các chương trình giáo dục giá trị văn hóa trong học đường, văn hóa công vụ trong hành chính, văn hóa doanh nghiệp trong kinh tế, coi đây là trụ cột để nâng cao chất lượng con người và củng cố niềm tin xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa đã dần thấm vào hành vi và đạo đức kinh doanh. Lễ trao giải văn hóa doanh nghiệp được tổ chức hàng năm. Phong trào doanh nhân văn hóa - doanh nghiệp sáng tạo, trách nhiệm, bền vững được phát động, khẳng định vai trò của doanh nghiệp không chỉ là nhà đầu tư, mà còn là người kiến tạo giá trị văn hóa và xã hội; ở đó, “văn hóa kinh doanh Việt Nam” không phải khẩu hiệu, mà là thước đo năng lực cạnh tranh và uy tín quốc gia.
Trên bình diện quốc tế, văn hóa trở thành công cụ đối ngoại mềm, góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế Việt Nam. Các sự kiện như Tuần Văn hóa Việt Nam tại Pháp, Ngày Việt Nam tại Hàn Quốc, Đại lễ Vesak tại TP. Hồ Chí Minh, Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội (HANIFF), và Lễ hội Văn hóa thế giới tại Hà Nội vừa được tổ chức, hay những buổi trình diễn của nghệ sĩ Việt Nam ở châu Âu và châu Á đều thể hiện rõ bản lĩnh và sức sáng tạo của đất nước. Qua văn hóa, thế giới hiểu hơn về Việt Nam - một quốc gia yêu hòa bình, nhân ái, sáng tạo và kiên cường.
Đưa văn hóa từ ý Đảng thấm sâu vào lòng dân
Từ những kết quả đó, có thể thấy Chính phủ nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã thành công trong việc gắn kết văn hóa với mọi lĩnh vực của đời sống, đưa văn hóa từ ý Đảng thấm sâu vào lòng dân, từ chính sách đi vào hành vi, từ tinh thần trở thành hành động. Đó chính là biểu hiện sinh động của sức mạnh văn hóa - sức mạnh thống nhất của quốc gia.
Thành công của Chính phủ trong nhiệm kỳ này nằm ở chỗ văn hóa đã trở thành thước đo hiệu quả quản trị quốc gia; bởi quản trị hiện đại không chỉ đòi hỏi năng lực điều hành, mà còn đòi hỏi đạo đức, niềm tin và sự đồng thuận xã hội - những yếu tố chỉ có thể bền vững khi được nuôi dưỡng bằng văn hóa. Chính phủ đã biết cách “làm chính trị bằng văn hóa”, “quản trị bằng niềm tin”, “xây dựng luật pháp bằng tinh thần nhân văn”.
Điều đáng quý hơn cả là trong quá trình đó, văn hóa không còn là “sản phẩm” của Nhà nước ban hành hay của nghệ sĩ sáng tạo, mà là hành trình chung của toàn xã hội; từ người cán bộ, công chức thực hành văn hóa công vụ; người doanh nhân làm kinh tế có trách nhiệm; người nông dân giữ gìn lễ hội quê hương; đến thế hệ trẻ sáng tạo trên không gian số - tất cả cùng làm nên bản hòa âm văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập.
Tất nhiên, chúng ta còn nhiều việc phải tiếp tục trong giai đoạn tới: hoàn thiện thể chế, phát triển công nghiệp văn hóa, đào tạo nhân lực chất lượng cao, tăng đầu tư cho sáng tạo, mở rộng hợp tác quốc tế, và đặc biệt là đưa văn hóa vào hệ thống chỉ tiêu phát triển quốc gia. Nhưng nền tảng đã có, hướng đi đã rõ, niềm tin đã hình thành. Những thành tựu của nhiệm kỳ này chính là nền tảng quan trọng để nhiệm kỳ tới tiếp tục xây dựng một Chính phủ kiến tạo - hành động - đổi mới - vì văn hóa, vì con người, vì phát triển bền vững.
Văn hóa phải sống trong Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân sáng tạo. Chính phủ nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã thực hiện đúng tinh thần ấy - bằng thể chế, bằng chính sách, bằng hành động cụ thể và bằng niềm tin vững chắc rằng: chỉ khi văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, chúng ta mới có thể phát triển nhanh, bền vững và hạnh phúc.
Từ ý Đảng đến lòng dân, từ nghị quyết đến cuộc sống, từ những giá trị truyền thống đến những không gian sáng tạo mới - văn hóa Việt Nam hôm nay đang hồi sinh mạnh mẽ trong một diện mạo mới: tự tin, nhân văn, sáng tạo và hội nhập. Và đó chính là dấu ấn sâu đậm nhất của Chính phủ nhiệm kỳ 2020 - 2025 - nhiệm kỳ của đổi mới tư duy, của khát vọng vươn lên, của niềm tin văn hóa trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/dau-an-van-hoa-trong-nhiem-ky-doi-moi-cua-chinh-phu-10390032.html
Bình luận (0)