Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(1), Việt Nam kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại “thêm bạn, bớt thù”, chủ động xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia trên thế giới(2). Đây là tư tưởng xuyên suốt chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng. Trên cơ sở tinh thần Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị khóa VI (năm 1988), Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã chính thức khẳng định chủ trương: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(3). Từ đây, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam được triển khai mạnh mẽ. Việt Nam đẩy mạnh quá trình bình thường hóa, thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tây Âu; đồng thời, bắt đầu phát triển quan hệ trên nhiều mặt với các nước khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân,...
Từ Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta đã xác định rõ phương châm đối ngoại là “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(4). Đến Đại hội IX (năm 2001), lần đầu tiên khái niệm “đối tác” được chính thức đưa vào trong định hướng đối ngoại, với chủ trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(5). Tiếp nối tinh thần đó, Đại hội X (năm 2006) đề ra chủ trương quan trọng: “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu”(6), mở ra giai đoạn chuyển từ thiết lập quan hệ sang củng cố và nâng tầm hiệu quả hợp tác. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa trong các kỳ Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội XII (năm 2016) của Đảng. Đến Đại hội XIII (năm 2021), đường lối đối ngoại được Đảng ta nâng tầm toàn diện hơn, với định hướng: “Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác”, đồng thời “coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng”(7). Bước phát triển này cho thấy sự kế thừa và phát triển liên tục trong tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh sự thích ứng linh hoạt với bối cảnh quốc tế và yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia và khuôn khổ quan hệ đối tác với 38 nước, ký kết hơn 170 thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là các nước đối tác chủ chốt ở khu vực Đông Bắc Á, là ba trong số 13 nước đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Theo đó, thời gian qua, với định hướng đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, quan hệ giữa Việt Nam với ba đối tác chủ chốt này đạt được những bước tiến vượt bậc. Quan hệ song phương không ngừng được nâng cấp, không chỉ mở rộng về phạm vi hợp tác, mà còn phát triển mạnh mẽ theo hướng toàn diện, sâu rộng, chủ động và bền vững.
Phát triển thực chất quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực
Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện vào năm 2008, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử quan hệ song phương. Từ thời điểm đó đến nay, quan hệ hai nước không ngừng được mở rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật trên hầu hết lĩnh vực.
Quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc được củng cố, phát triển sâu sắc với các cuộc tiếp xúc cấp cao và các cấp được duy trì thường xuyên, linh hoạt dưới nhiều hình thức. Trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh năm 2008, hai bên đã thiết lập khuôn khổ quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Đặc biệt, trong chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào năm 2023, hai nước nhất trí tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh Việt Nam - Trung Quốc. Tiếp đó, trong chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm (tháng 8-2024), hai bên đã ra Tuyên bố chung về việc tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc. Ngoài ra, nhiều hình thức trao đổi và tiếp xúc khác, như thư tín, hội đàm trực tuyến, điện đàm, cử đặc phái viên, gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước cũng diễn ra ngày càng mật thiết và hiệu quả.
Hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch có bước tăng trưởng nhảy vọt. Về kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước, tính theo số liệu của Việt Nam đã tăng 9,7 lần, từ 20,8 tỷ USD năm 2008 lên 205,2 tỷ USD năm 2024. Trong 20 năm qua, Trung Quốc liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 2016 đến nay, Việt Nam luôn duy trì vị trí đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN và kể từ năm 2020, đã vươn lên trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của Trung Quốc, chỉ sau Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Về đầu tư, tính đến hết năm 2008, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam đạt khoảng 2 tỷ USD, xếp thứ 11 trong số 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Tính đến hết tháng 12-2024, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam đạt lũy kế là 30,83 tỷ USD, với 5.111 dự án còn hiệu lực. Về FDI vào Việt Nam, Trung Quốc giữ vị trí thứ 6/148 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm hơn 6,2% tổng FDI vào Việt Nam. Nhiều tập đoàn Trung Quốc có quy mô lớn, công nghệ cao, có khả năng tham gia sâu chuỗi cung ứng toàn cầu đã có mặt tại Việt Nam. Về du lịch, tháng 1-2025, Trung Quốc đã quay trở lại là thị trường hàng đầu đón khách du lịch Việt Nam với 575 nghìn lượt (tăng 54% so với cùng kỳ năm 2024).
Hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực khác, như nông nghiệp, giao thông vận tải, y tế, văn hóa, giáo dục đều có tiến triển tích cực. Đặc biệt, Thỏa thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc về triển khai ba tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn đã được ký kết. Dự án tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đã hoàn thành nghiên cứu tiền khả thi và được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, khởi công trong năm 2025. Hai dự án tuyến đường sắt Lạng Sơn - Hà Nội và Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng dự kiến sẽ hoàn thành công tác lập quy hoạch trong năm 2025.
Hợp tác địa phương và giao lưu nhân dân diễn ra sôi động. Hai nước đã phối hợp tổ chức 23 kỳ Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt Nam - Trung Quốc, 3 kỳ Liên hoan thanh niên Việt Nam - Trung Quốc và 12 kỳ Diễn đàn nhân dân Việt Nam - Trung Quốc, góp phần tăng cường hiểu biết, củng cố lòng tin và thúc đẩy giao lưu nhân dân.
Tình hình biên giới trên đất liền và khu vực Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc cơ bản ổn định. Biên giới trên bộ được duy trì hòa bình, hợp tác và phát triển; hoạt động giao lưu, giao thương giữa người dân hai nước tại khu vực biên giới nhìn chung diễn ra thuận lợi. Vịnh Bắc Bộ được phân định rõ ràng và là khu vực có hợp tác song phương diễn ra khá thường xuyên.
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản vì hòa bình và thịnh vượng
Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Hai bên đã nâng cấp quan hệ lên “Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” năm 2009, “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” năm 2014, gần đây nhất là “Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới” (tháng 11-2023).
Kể từ khi hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược sâu rộng năm 2014, hoạt động trao đổi đoàn cấp cao diễn ra thường xuyên, góp phần củng cố tin cậy chính trị. Giao lưu, hợp tác qua các kênh Đảng và nghị viện cũng được đẩy mạnh.
Nhật Bản luôn coi trọng, đánh giá cao vai trò, vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế. Việc mời Việt Nam tham dự Hội nghị Cấp cao G20 năm 2019 và hai lần mời tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng vào các năm 2016 và 2023 là minh chứng rõ nét cho sự coi trọng này. Trong bối cảnh Nhật Bản tích cực thúc đẩy triển khai Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP), Việt Nam ngày càng trở thành đối tác trọng yếu trong cấu trúc khu vực mà Nhật Bản theo đuổi, nhờ vào vị thế địa - chiến lược, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và vai trò ngày càng nổi bật tại các cơ chế đa phương.
Hai nước cũng tăng cường phối hợp, chia sẻ lập trường và hợp tác chặt chẽ trong xử lý các vấn đề khu vực và toàn cầu, như an ninh biển, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và chuỗi cung ứng. Việt Nam và Nhật Bản duy trì hợp tác hiệu quả tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế và các cơ chế hợp tác kinh tế - thương mại đa phương, như Liên hợp quốc, ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Điều này cho thấy sự đồng thuận về tầm nhìn chiến lược, lợi ích chung, cũng như cam kết thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, thương mại tự do và một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.
Nhiều cơ chế đối thoại giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được thiết lập, nâng cấp và triển khai ngày càng hiệu quả, phản ánh sự phát triển sâu rộng và toàn diện của quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực, như Ủy ban Hợp tác Việt Nam - Nhật Bản, Ủy ban hỗn hợp về thương mại, năng lượng và công nghiệp, Đối thoại cấp Bộ trưởng, Đối thoại đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản cấp Thứ trưởng Ngoại giao, Đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng và Đối thoại an ninh cấp Thứ trưởng.
Hiện nay, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư tiếp tục là điểm sáng, trụ cột chính trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Nhật Bản là một trong những đối tác kinh tế, thương mại, đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
Nhật Bản là quốc gia trong nhóm G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10-2011), đồng thời hai nước đã dành cho nhau quy chế tối huệ quốc từ năm 1999. Hai nước cùng tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như CPTPP, RCEP.
Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản tăng trưởng ổn định, với cán cân thương mại duy trì ở mức tương đối cân bằng. Nhật Bản là đối tác thương mại song phương lớn thứ tư của Việt Nam với tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 46,2 tỷ USD trong năm 2024, tăng 2,7% so với năm 2023. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 24,6 tỷ USD, trong khi nhập khẩu từ Nhật Bản đạt 21,6 tỷ USD.
Nhật Bản luôn giữ vững vai trò là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam. Tính đến tháng 1-2025, Nhật Bản có 5.512 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 78,3 tỷ USD, đứng thứ ba sau Hàn Quốc (92,1 tỷ USD) và Xin-ga-po (84,1 tỷ USD) trong tổng số 149 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Ở chiều ngược lại, hiện nay Việt Nam có 124 dự án đầu tư tại Nhật Bản, với tổng vốn đăng ký đạt 20,4 triệu USD.
Hiện nay, Nhật Bản là đối tác cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam, với tổng giá trị lũy kế đến năm 2024 đạt khoảng 3.000 tỷ Yên, chiếm khoảng 26% tổng số lượng ODA của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam. Đặc biệt, hai nước đang tích cực thúc đẩy triển khai Chương trình ODA thế hệ mới với việc ký kết công hàm trao đổi khoản viện trợ đầu tiên trị giá 50 tỷ Yên vào tháng 5-2025, mở ra thời kỳ mới cho hợp tác ODA giữa hai nước.
Về hợp tác lao động, hiện nay trong số 15 nước cử lao động sang Nhật Bản, Việt Nam là quốc gia cử số lượng lao động lớn nhất. Hiện nay, khoảng 345.000 người lao động Việt Nam đang làm việc tại Nhật Bản, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả hai nước.
Hợp tác giữa các địa phương Việt Nam - Nhật Bản ngày càng sôi động, thực chất và trở thành điểm sáng trong quan hệ song phương. Đến nay, hơn 100 cặp địa phương đã ký kết thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực, như đầu tư, thương mại, lao động, đào tạo, giao lưu văn hóa và giao lưu nhân dân. Hiện nay, hơn 600.000 người Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc tại Nhật Bản và hơn 20.000 người Nhật Bản sinh sống, học tập và làm việc tại Việt Nam, góp phần tăng cường hiểu biết và kết nối giữa hai dân tộc.
Khẳng định đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc phát triển bền vững
Sau hơn 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Niềm tin chính trị không ngừng được củng cố, hợp tác trên các lĩnh vực ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Tình hữu nghị và giao lưu nhân dân giữa hai nước ngày càng gắn bó, góp phần tạo nền tảng bền vững cho quan hệ song phương.
Việt Nam và Hàn Quốc đã nâng cấp quan hệ song phương từ “Đối tác hợp tác chiến lược” (năm 2009) lên “Đối tác chiến lược toàn diện” (năm 2022), qua đó tạo nền tảng thúc đẩy hợp tác toàn diện, sâu rộng và hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Hoạt động trao đổi đoàn cấp cao cũng như giữa các bộ, ngành, địa phương diễn ra sôi nổi, linh hoạt, góp phần củng cố tin cậy chính trị. Hai bên tăng cường tham vấn, phối hợp lập trường tại các diễn đàn khu vực và quốc tế cùng quan tâm, nhất là trong giai đoạn Việt Nam đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2020 - 2021), nước điều phối quan hệ ASEAN - Hàn Quốc (2021 - 2024), và Chủ tịch ASEAN (các năm 2010, năm 2020). Hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng phát triển ngày càng thực chất. Đồng thời, hai nước mở rộng hợp tác về an ninh mạng, phòng, chống tội phạm công nghệ cao và các loại tội phạm xuyên quốc gia.
Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư luôn là điểm sáng và là một trong những trụ cột quan trọng nhất trong quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc.
Hai nước đã trở thành đối tác kinh tế hàng đầu của nhau. Kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng vượt bậc, từ 0,5 tỷ USD vào năm 1992 - thời điểm thiết lập quan hệ ngoại giao - lên 86,7 tỷ USD vào năm 2024, tăng gấp 173 lần. Hai bên đã ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA), là thành viên của các khuôn khổ hợp tác thương mại khu vực, như RCEP, Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA).
Hàn Quốc tiếp tục là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Tính đến tháng 2-2025, Hàn Quốc đứng đầu trong số 147 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký đạt 92,1 tỷ USD và 10.120 dự án còn hiệu lực, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Doanh nghiệp Hàn Quốc ngày càng tham gia tích cực vào hoạt động đầu tư, kinh doanh với doanh nghiệp Việt Nam, đóng góp khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Về hợp tác phát triển, Hàn Quốc tiếp tục coi Việt Nam là đối tác ưu tiên hàng đầu, với khoảng 20% tổng viện trợ phát triển của Hàn Quốc dành cho Việt Nam. Hiện nay, Hàn Quốc là nhà tài trợ ODA song phương lớn thứ hai của Việt Nam. Trong những năm gần đây, tổng giá trị viện trợ ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam hằng năm đạt trên 500 triệu USD, trong đó khoảng 90% là vốn vay ưu đãi và 10% là viện trợ không hoàn lại. Đáng chú ý, tháng 6-2023, Thỏa thuận hợp tác Quỹ Xúc tiến kinh tế Hàn Quốc (EDPF) trị giá 2 tỷ USD đã được hai nước ký kết, nhằm triển khai các dự án đầu tư phát triển quy mô lớn trong các lĩnh vực giao thông và hạ tầng đô thị tại Việt Nam.
Về hợp tác lao động, Hàn Quốc là một trong những thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam lớn nhất. Hiện nay, hơn 100.000 người lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc theo nhiều hình thức khác nhau, như chương trình cấp phép cho lao động nước ngoài (EPS), thuyền viên, lao động kỹ thuật trong ngành đóng tàu, lao động thời vụ... Nhằm bảo đảm quyền lợi và an sinh xã hội cho người lao động hai nước, năm 2021, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký kết Hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi của người lao động làm việc trên lãnh thổ của nhau.
Hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Hàn Quốc tiếp tục đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Hai bên đã ký kết nhiều văn bản hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, góp phần thúc đẩy giao lưu nhân dân và đào tạo nguồn nhân lực. Về khoa học - công nghệ, hai nước đã tổ chức 9 Kỳ họp của Ủy ban Hợp tác khoa học - công nghệ, qua đó tăng cường phối hợp và triển khai chương trình hợp tác cụ thể. Hàn Quốc thường xuyên cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, cử chuyên gia sang giúp Việt Nam nâng cao năng lực trong lĩnh vực công nghệ cao, phát triển và ứng dụng công nghệ, sở hữu trí tuệ...
Hợp tác địa phương và giao lưu nhân dân giữa Việt Nam và Hàn Quốc không ngừng phát triển. Đến nay, hơn 80 cặp địa phương hai nước thiết lập quan hệ hợp tác, tăng hơn 5 lần so với con số 15 địa phương vào năm 2009, thời điểm hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược. Giao lưu nhân dân diễn ra sôi động, với khoảng 200.000 - 300.000 kiều bào mỗi nước đang sinh sống, học tập và làm việc tại nước kia, trong đó có khoảng 80.000 gia đình đa văn hóa Việt - Hàn. Hàn Quốc cũng là một trong những thị trường cung cấp khách du lịch lớn nhất cho Việt Nam. Năm 2024 đánh dấu lần đầu tiên tổng lượng giao lưu nhân dân giữa hai nước vượt mốc 5 triệu lượt người, trong đó có 4,6 triệu lượt người Hàn Quốc đến Việt Nam và khoảng 600.000 lượt người Việt Nam đến Hàn Quốc.
Tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác Việt Nam và các nước đối tác chủ chốt ở khu vực Đông Bắc Á đi vào chiều sâu, hiệu quả
Việc định hướng phát triển quan hệ đối ngoại theo chiều sâu được đặt trên nền tảng lý luận khoa học, phân tích động lực thực tiễn thúc đẩy hợp tác quốc tế bền vững. Trong đó, sự tương đồng về lợi ích chiến lược, thể chế chính trị và bản sắc văn hóa - xã hội được xem là những nhân tố cơ bản định hình và duy trì trạng thái hợp tác ổn định giữa các quốc gia. Sự hội tụ của ba yếu tố lợi ích, thể chế và bản sắc không chỉ đóng vai trò nền tảng trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế thực chất, mà còn góp phần xây dựng, củng cố lòng tin giữa các bên trong quan hệ quốc tế. Trên thực tế, ở các tầm mức khác nhau, các yếu tố này đã tạo lập nền tảng quan trọng thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác chủ chốt ở khu vực Đông Bắc Á, như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc tiếp tục phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc và thực chất.
Xét từ góc độ lợi ích, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam trong các lĩnh vực, như đầu tư, thương mại, viện trợ phát triển, du lịch và lao động. Bên cạnh sự tương đồng về lợi ích, mối quan hệ giữa Việt Nam với ba quốc gia này còn mang tính chất bổ sung lẫn nhau về cơ cấu kinh tế. Nhu cầu chung trong việc xây dựng các chuỗi cung ứng mới, cũng như yêu cầu hợp tác để ứng phó với thách thức toàn cầu, như chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng và chủ nghĩa bảo hộ, đã làm gia tăng vai trò chiến lược của Việt Nam trong chính sách phát triển kinh tế của các nước trên. Từ đó, sự đan xen về lợi ích kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ngày càng trở nên sâu sắc.
Không chỉ vậy, Việt Nam và các nước khu vực Đông Bắc Á còn chia sẻ những lợi ích cốt lõi có tính chiến lược, đặc biệt trong việc duy trì môi trường khu vực và quốc tế hòa bình, ổn định và hợp tác. Các bên cùng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đề cao vai trò trung tâm của Liên hợp quốc, cam kết giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Đồng thời, sự hợp tác trong ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, cũng như việc thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và củng cố vai trò trung tâm của ASEAN, thể hiện sự đồng thuận chiến lược giữa các bên. Các yếu tố này không chỉ góp phần định hình cấu trúc an ninh khu vực, mà còn nâng cao vị thế và ảnh hưởng quốc tế của từng quốc gia trong bối cảnh tình hình khu vực đang chuyển động nhanh chóng.
Xét từ góc độ bản sắc, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chia sẻ nhiều điểm tương đồng về văn hóa, xã hội và lịch sử, các giá trị chung về gia đình, cộng đồng, xã hội. Đây là các yếu tố đưa tới sự hiểu biết, gần gũi nhau hơn giữa chính phủ, doanh nghiệp, người dân - điều kiện nền tảng thuận lợi để Việt Nam phát triển quan hệ với các nước này, nhất là trong so sánh với các mối quan hệ của Việt Nam với các nước ở những khu vực khác trên thế giới. Hơn nữa, sự phát triển của mối quan hệ toàn diện, đặc biệt là qua hoạt động giao lưu nhân dân và tiếp xúc cấp cao được tăng cường trong thời gian gần đây giữa Việt Nam và các nước này, góp phần quan trọng củng cố sự hiểu biết lẫn nhau trên cơ sở điểm tương đồng về lợi ích và bản sắc.
Nỗ lực của Việt Nam trong việc phát triển quan hệ song phương, đặc biệt là việc nâng cấp khuôn khổ quan hệ lên mức cao nhất - đối tác chiến lược toàn diện - với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, đã góp phần tạo lập thể chế cần thiết, bảo đảm chiều sâu cho quan hệ song phương. Các khuôn khổ thể chế này đều có cơ chế rà soát, đánh giá định kỳ việc triển khai quan hệ trên các lĩnh vực nhằm bảo đảm quan hệ phát triển đúng định hướng, đồng thời tạo điều kiện khai thác hiệu quả cơ hội mới, kịp thời xử lý khác biệt về lợi ích và vấn đề phát sinh giữa các bên. Ngoài ra, việc Việt Nam cùng Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chủ động, tích cực tham gia đóng góp vào các khuôn khổ đa phương, song phương và khu vực (như ASEAN, các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, Liên hợp quốc, hệ thống FTA,...) góp phần củng cố quan hệ song phương. Qua đó, yếu tố thể chế đóng vai trò thúc đẩy sự tăng cường nhận thức và hành động chung giữa các bên liên quan đến lợi ích.
Tựu trung, thực tiễn quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác chủ chốt ở khu vực Đông Bắc Á, như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là minh chứng sinh động cho mô hình hợp tác quốc tế phát triển bền vững và đi vào chiều sâu, dựa trên sự hội tụ của các yếu tố cốt lõi là lợi ích, bản sắc, thể chế, lòng tin. Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố này tạo nên nền tảng vững chắc thúc đẩy quan hệ song phương phát triển ở mức độ cao hơn, với bề dày lịch sử, phạm vi hợp tác sâu rộng hơn, mức độ gắn kết cao hơn trong các lĩnh vực then chốt, cũng như khả năng thích ứng và vượt qua vấn đề tồn tại và thách thức mới nảy sinh.
Trên cơ sở đó, việc tăng cường nhận thức và thúc đẩy triển khai hành động nhằm củng cố các yếu tố lợi ích, bản sắc, thể chế, lòng tin tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng hợp tác bền vững, lâu dài giữa Việt Nam với các nước đối tác chủ chốt ở khu vực Đông Bắc Á, như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đồng thời, điều này góp phần quan trọng vào việc hạn chế tối đa yếu tố có thể tác động tiêu cực đến lợi ích quốc gia và hiệu quả hợp tác giữa các bên./.
---------------------
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp bộ “Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc: Thực tiễn và định hướng chính sách đến năm 2030”. Mã số 01-25/HĐKH.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 256
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 153
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 147
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 120
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 161
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 38
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 163
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1125002/dua-quan-he-cua-viet-nam-voi-cac-doi-tac-chu-chot-o-khu-vuc-dong-bac-a-di-vao-chieu-sau.aspx
Bình luận (0)