Đúng vào cao điểm nắng nóng, vợ từ cánh Tây về, mang theo quà cây nhà lá vườn của chị, nào mít, sầu riêng, tía tô, rau mì chính, cả ớt xanh chỉ thiên và cả một bó chè xanh.
Chị rời quê vào Đắk Lắk dạy học từ cuối những năm 1970, vườn nhà chị rộng, trồng đủ thứ cây, dĩ nhiên là không thiếu chè. Đúng là với người Nghệ, đi đâu thì đi, thiếu chi thì thiếu, nhưng thiếu chè xanh, còn gọi là chè chát, thì không thể.
Ảnh minh họa |
Vợ bảo: "Lại nhớ chè xanh xứ Nghệ rồi phải không?" rồi đi om chè xanh, theo công thức những lần về quê được mẹ chồng chỉ bảo. Là cái công thức ngàn năm xứ Nghệ: Chè xanh bẻ nhỏ/ Loại bỏ lá sâu/ Rửa sạch, vò nhỏ/ Nước sôi già lâu/ Ủ vào trong giỏ/ Nước xanh đẹp màu. Để có hương vị chè thơm và xanh lâu, uống cả ngày, uống cạn ấm cạn nồi rồi vẫn còn xanh còn thơm, người Nghệ có bí quyết đặc biệt mà nhà báo lão thành Phan Quang, nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, trong một bài báo cách đây mấy chục năm, gọi là nghệ thuật hãm chè hoàn nguyên. Tức là chè xanh sau khi đã đổ nước sôi vào ấm hay đun sôi trong nồi thì cho thêm chút nước lạnh rồi đậy nắp/vung lại. Nghệ thuật này được Lục Vũ, đời nhà Đường ở Trung Quốc, khi viết "Trà kinh" rất đắc ý, nhưng theo lão nhà báo Phan Quang thì người Nghệ nói riêng, người khu Tư nói chung đã phát hiện ra nghệ thuật hãm chè này hàng trăm năm trước đó.
Om chè xong, vợ rót nước chè vào cái đọi (bát, chén) đưa chồng. Đọi chè sóng sánh vàng xanh, thơm ngan ngát, uống đến đâu mát đến đó. Thật kỳ lạ là nước chè xanh, chỉ cần làm vài đọi là bao nóng nực, mệt mỏi tan biến đi đâu hết. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người chảo lửa gió Lào xứ Nghệ lại chọn chè xanh làm thức uống hằng ngày.
Lại nhớ thời bao cấp xưa, nghèo thế nhưng trong thúng mẹ đi chợ về không bao giờ thiếu bó chè. Chợ xứ Nghệ, dù to dù nhỏ, không bao giờ thiếu hàng chè xanh. Có nhiều thương hiệu chè xanh, nhưng ngon nhất vẫn là chè Gay ở Anh Sơn, Nghệ An. Chè này không mướt mát mượt mà, lá nhỏ nhưng dày và giòn, nước vàng xanh, thơm ngon hơn hẳn chè các nơi khác.
Ở xứ Nghệ, trẻ em vài ba tuổi đã uống chè xanh. Uống từ nhỏ nên ghiền, đi xa không có đọi chè xanh cảm thấy nhạt miệng, nên nhớ, nên muốn mau về. Ở làng tôi, các lão nông, sáng vác cày ra đồng không quên kèm theo ấm nước. Cày vài chục sá lại lên bờ làm đọi nước, cứ rứa mà xong cả sào lúc nào không hay. Mùa gặt, công việc nhà nông bộn bề, chỉ cần tô chè xanh làm canh kèm đọi cà muối cũng xong bữa. Cà với canh như anh với ả, càng cơm cà càng háo nước chè xanh.
Không chỉ là thức uống hằng ngày, chè xanh còn là tình làng nghĩa xóm. "Trưa nắng hè gọi nhau râm ran chè xanh", dăm bảy nhà gần nhau lập một hội chè xanh. Hôm nay nhà này, mai nhà kia, ăn cơm trưa, cơm tối xong, ới một tiếng, lát sau đã lục tục người kéo đến. Một nồi chè xanh bốc khói cùng rổ khoai, lạc luộc, chuyện làng chuyện xóm, chuyện mùa màng râm ran không dứt. Rồi con đi bộ đội, con đi đại học, cũng chè xanh râm ran. Ngày xưa nghèo, đám cưới chỉ miếng trầu, đọi nước chè xanh, sang hơn thì có thêm cái kẹo, điếu thuốc, vậy mà vững bền duyên lứa.
"Ai về nhắn với nậu nguồn/ Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên", bây giờ, mỗi chuyến xe đi về của người cánh Đông làm việc ở phía Tây của Đắk Lắk lại chở theo nghĩa tình tôm cá dưới lên, trái rau trên xuống. Riêng nhà mình còn có thêm chè xanh và mật ong.
Cá kho người Nghệ không thể thiếu mật mía, chè xanh, vì nó làm cho con cá chắc, thơm ngon hơn. Cá biển lên, chè xanh xuống, nhà chị, nhà em cùng thơm nức mật mía, chè xanh kho cá. Còn mật ong thì: "Muốn cho mịn đẹp màu da/ Rủ nhau chè chát cùng hòa mật ong" là bài thuốc xưa mẹ bày cho con gái, rồi bày cho con dâu, vô cùng hiệu nghiệm. Xưa nghèo, chủ yếu là chè xanh hòa mật mía, cũng tốt, nay có điều kiện thì hòa với mật ong, tốt hơn. Mà mật ong Đắk Lắk thì ít nơi nào bằng, nên quà chị gửi xuống, có cả chai mật ong rừng Đắk Lắk…
Nguồn: https://baodaklak.vn/du-lich/202508/goi-nhau-ram-ran-che-xanh-be41d1e/
Bình luận (0)