Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Hành trình đưa tri thức bản địa ra thế giới: Việt Nam cần kể câu chuyện của mình như thế nào?

Quãng năm 2022, khi có dịp tham dự Hội sách Frankfurt ở Đức, tôi rất ngạc nhiên trước sự hiện diện đầy ấn tượng của sách vở và tri thức từ các quốc gia Trung Đông mang đến đây - trong một hội sách có truyền thống lâu đời và lớn bậc nhất thế giới, nơi các nền xuất bản xuất hiện như một đại diện của sức mạnh mềm các quốc gia và những vùng đất.

Báo Đà NẵngBáo Đà Nẵng28/09/2025

dji_0103.jpg
Việt Nam có thể đầu tư xây dựng chuỗi sách giới thiệu thiên nhiên bản địa bằng hình ảnh, minh họa sinh động, kết hợp nội dung khoa học và kể chuyện. Trong ảnh: Một góc xã Hòa Vang nhìn từ trên cao. Ảnh: HỮU TẤN

Trong khuôn khổ hội sách đó, phiên tọa đàm chủ đề Các xu hướng trong dịch thuật và xuất bản văn học Ả-Rập đương đại ở châu Âu gây chú ý bởi những bước dịch chuyển, phát triển mạnh mẽ và bài bản của vùng đất này trong thập niên gần đây. Trong đó, dịch thuật văn chương tiếng Ả-Rập sang tiếng Anh để giới thiệu đến toàn thế giới, là một chi tiết cụ thể trong một bức tranh rộng lớn hơn.

Nếu không có những hoạt động mang tính chiến lược tầm quốc gia và liên quốc gia đó, có lẽ phần còn lại của thế giới khó mà hình dung được kho tàng vô cùng đặc sắc, giá trị và hấp dẫn của văn chương và rộng hơn là nền văn hóa thuộc thế giới Ả-Rập.

Sức mạnh mềm cho tầm vóc quốc gia

Hơn 10 năm qua, nhiều quốc gia Trung Đông - đặc biệt là các nước vùng Vịnh như Qatar, UAE, Saudi Arabia - đã và đang tích cực chuyển đổi mô hình phát triển, hướng tới “kỷ nguyên hậu dầu mỏ” bằng cách đầu tư mạnh mẽ vào văn hóa, giáo dục và xuất bản tri thức bản địa như một công cụ chiến lược.

Quay ngược về quá khứ, ở các nước Đông Á có bối cảnh gần hơn với Việt Nam; vào cuối thế kỷ 19, khi Nhật Bản bắt đầu công cuộc canh tân Minh Trị, họ không chỉ cải tổ quân đội hay công nghiệp hóa - mà còn xuất khẩu một thứ “vũ khí mềm” đặc biệt: tri thức bản địa. Cuốn sách “Bushido: The Soul of Japan” của Nitobe Inazo viết trực tiếp bằng tiếng Anh đã trở thành nhịp cầu đầu tiên để phương Tây hiểu và nể trọng tinh thần võ sĩ đạo - một giá trị cốt lõi của Nhật Bản. Đó là thời điểm Nhật Bản hiểu rằng: Họ cần kể câu chuyện của mình ra thế giới, để thế giới hiểu được tinh thần và tâm hồn của họ.

Một thế kỷ sau, Hàn Quốc - từ một quốc gia nghèo hậu chiến - đã chủ động đưa văn hóa bản địa ra thế giới bằng văn chương, truyện tranh, phim ảnh, và tri thức học thuật. Chính phủ Hàn Quốc đã lập các trung tâm dịch thuật quốc gia, tài trợ hàng trăm đầu sách được chuyển ngữ và phát hành quốc tế. Thành công của văn học và tri thức Hàn Quốc mở đường cho làn sóng Hallyu và định vị Hàn Quốc là một trung tâm văn hóa Á Đông.

Với Việt Nam, thời điểm tương tự đang đến. Trong kho tàng văn hóa Việt là hàng ngàn năm kinh nghiệm và tri thức bản địa - từ y học cổ truyền, canh tác nông nghiệp, triết lý sống, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian đến các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và văn chương... Tuy nhiên, phần lớn các giá trị này vẫn nằm trong “vùng im lặng” của thế giới học thuật và công chúng quốc tế. Thế giới biết đến Việt Nam phần nhiều qua chiến tranh, ẩm thực, hoặc du lịch - nhưng chưa thấy rõ các khía cạnh giá trị đa dạng khác.

lang 1
Bề dày văn hóa và những giải pháp sống hài hòa với thiên nhiên, cộng đồng của Việt Nam là nguồn cảm hứng cho thế giới đang tìm cách phát triển bền vững và bao trùm. Trong ảnh: Người cao tuổi trò chuyện cùng nhau tại đình làng Túy Loan. Ảnh: KIM LIÊN

Chúng ta có thể mang điều gì ra thế giới?

Một trong những mảng tri thức bản địa có giá trị đặc biệt mà Việt Nam cần đẩy mạnh xuất bản ra thế giới là Việt Nam học - dưới góc nhìn của chính các nhà nghiên cứu trong nước. Nhiều thập kỷ qua, các học giả nước ngoài đã đóng góp to lớn vào kho tư liệu về Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu ấy đôi khi còn giới hạn bởi góc nhìn bên ngoài, thiếu trải nghiệm sống động với văn hóa bản địa.

Một ví dụ điển hình cho thấy sự cần thiết của việc thúc đẩy các công trình Việt Nam học từ chính giới học giả trong nước song song với các góc nhìn từ bên ngoài, là trường hợp nghiên cứu về vùng cao từ góc độ lịch sử và dân tộc học trong những năm gần đây.

Đáng chú ý là công trình của nhà sử học người Pháp Philippe Le Failler về vùng cao sông Đà - một không gian văn hóa, lịch sử và dân tộc học đặc thù của Tây Bắc được xuất bản năm 2014 ở ấn bản tiếng Pháp, và năm 2025 vừa qua là ấn bản tiếng Việt có tên “Sông Đà”: Lịch sử một vùng biên cảnh (do Omega Plus và NXB Hồng Đức ấn hành).

Phương pháp tiếp cận của một sử gia phương Tây mang lại những kiến giải rất mới mẻ và đáng suy nghĩ về chủ đề này.

Tuy nhiên, bên cạnh tầm nhìn tư liệu đó, cũng cần sự hiện diện và tiếng nói từ bên trong - từ các nhà nghiên cứu bản địa như Nguyễn Mạnh Tiến với tác phẩm “Những đỉnh núi du ca: Một lối tìm về cá tính H’Mông” do NXB Thế giới và Song Thuy Bookstore ấn hành.

Với những lợi thế trong việc tiếp cận theo phương pháp điền dã, những trải nghiệm sống động, phong phú và sự thâm nhập sâu sắc vào đời sống xã hội cũng như tinh thần của người H’Mông, chưa tính đến những thuận lợi về mặt ngôn ngữ, nhà dân tộc học Nguyễn Mạnh Tiến có những bổ sung rất quan trọng cho cách nhìn về lịch sử vùng núi của Việt Nam.

Cuốn sách của ông không chỉ là khảo cứu, mà còn là một “bản tường trình từ bên trong” về thế giới quan, lối sống, âm nhạc, nghi lễ - những khía cạnh thường bị bỏ sót khi nhìn từ bên ngoài.

Sự hiện diện song song trên đây cho thấy: Việt Nam học không chỉ cần tiếng nói từ quốc tế, mà còn rất cần các học giả trong nước được tiếp sức, được xuất bản quốc tế và có điều kiện nói lên tiếng nói học thuật của chính cộng đồng mình. Chính họ mới là những người bảo vệ, làm mới và đưa bản sắc vùng biên vào dòng chảy tri thức toàn cầu.

Việc hình thành một hệ thống công trình Việt Nam học bằng tiếng Anh (và cả các ngôn ngữ khác) do người Việt chủ trì - với sự đồng hành của các NXB quốc tế, trường đại học hoặc trung tâm dịch thuật - không chỉ là bước đi học thuật, mà còn là chiến lược ảnh hưởng bằng sức mạnh mềm. Những công trình như vậy có thể đóng vai trò định hình lại cách thế giới hiểu về Việt Nam.

Một lĩnh vực tri thức bản địa khác mà chúng ta cần chú ý là tri thức về tự nhiên. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao hàng đầu thế giới, với hệ động thực vật phong phú trải dài từ núi rừng Tây Bắc, Tây Nguyên đến hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô và vùng biển nhiệt đới. Tuy nhiên, số lượng ấn phẩm phổ biến khoa học hoặc nghiên cứu chuyên sâu về tự nhiên Việt Nam được xuất bản quốc tế còn rất hạn chế.

Đây là lĩnh vực mà Việt Nam có thể đầu tư xây dựng chuỗi sách giới thiệu thiên nhiên bản địa bằng hình ảnh, minh họa sinh động, kết hợp nội dung khoa học và kể chuyện. Những ấn phẩm này có thể đồng thời phục vụ giáo dục, du lịch sinh thái và xuất khẩu nội dung sáng tạo.

Việc giới thiệu văn học Việt Nam ra thế giới đã có quá nhiều thảo luận từ trước tới nay, bao gồm các vấn đề về chuyển ngữ các tác phẩm từ cổ điển đến hiện đại của Việt Nam sang tiếng Anh một cách có hệ thống. Ở đây chúng ta nhìn rộng hơn ra các khía cạnh khác của văn hóa truyền thống.

Thật mừng là hiện nay cũng đã bắt đầu có những xu hướng sáng tạo và sản xuất nội dung số dựa trên nguồn chất liệu từ văn học dân gian, khai thác từ các yếu tố lịch sử, phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian… để sáng tạo các IPs, các biểu tượng và các phim hoạt hình chuyển tải nhiều giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Trong quá trình vươn lên trở thành quốc gia có ảnh hưởng, không một nền kinh tế nào có thể chỉ dựa vào sản xuất hàng hóa hay lợi thế lao động giá rẻ. Bên cạnh các chỉ số GDP hay thu hút FDI, điều tạo nên sức nặng lâu dài và chiều sâu phát triển của một quốc gia chính là khả năng sản sinh, sở hữu và xuất khẩu tri thức.

Xuất bản tri thức bản địa không phải là việc “quốc tế hóa văn hóa” một chiều, mà là hành động khẳng định quyền tự thuật và chủ động tham gia đối thoại với văn minh toàn cầu. Việt Nam có đủ chất liệu để kể câu chuyện của mình: từ những thôn làng Bắc Bộ đến rừng sâu Tây Nguyên, từ tầng sâu ký ức lịch sử đến lớp lang tri thức về tự nhiên.

Nhưng để những câu chuyện ấy đến được với thế giới, chúng ta cần một chiến lược: xác định mũi nhọn nội dung, đầu tư dịch thuật, liên kết nhà xuất bản, xây dựng cơ chế hỗ trợ về mặt chính sách, thậm chí cần sự bảo trợ ở tầm mức quốc gia, và quan trọng nhất là nuôi dưỡng một thế hệ học giả, tác giả, các nhà xuất bản có tầm nhìn toàn cầu nhưng không đánh mất gốc rễ bản địa. Nếu Nhật Bản, Hàn Quốc đã làm được, không lý gì Việt Nam lại đứng ngoài cuộc. Vấn đề chỉ còn là: khi nào chúng ta thực sự bắt đầu?

Nguồn: https://baodanang.vn/hanh-trinh-dua-tri-thuc-ban-dia-ra-the-gioi-viet-nam-can-ke-cau-chuyen-cua-minh-nhu-the-nao-3304900.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Lạc bước săn mây ở Tà Xùa
Có một đồi hoa Sim tím ngát vùng trời Sơn La
Đèn kéo quân - Món quà Trung thu trong ký ức
Tò he – từ món quà tuổi thơ đến tác phẩm nghệ thuật tiền triệu

Cùng tác giả

Di sản

;

Nhân vật

;

Doanh nghiệp

;

No videos available

Thời sự

;

Hệ thống Chính trị

;

Địa phương

;

Sản phẩm

;