Trong suốt gần 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), giải quyết việc làm, thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, chưa bao giờ khu vực kinh tế tư nhân được khẳng định như trong Nghị quyết 68, bởi đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị khẳng định “kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân”.
Quan điểm này đánh dấu sự thay đổi sâu sắc trong nhận thức chiến lược về vai trò của khu vực tư nhân, đó là từ vị trí thứ yếu trở thành trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành thế “kiềng ba chân” vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập thành công.
Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu về mặt kinh tế mà còn là mệnh lệnh chính trị, nhằm củng cố nền tảng tự chủ kinh tế quốc gia và hội nhập sâu rộng, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng trong một thế giới đầy biến động. Không chỉ thừa nhận, Nghị quyết 68 còn trân trọng, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, khẳng định vai trò của doanh nhân là những người “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”. Có thể nói, đây là văn kiện đặc biệt quan trọng nhất từ trước tới nay dành cho kinh tế tư nhân.
Nghị quyết 68 là một cú hích lớn cho khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết đã mở đường cho các cải cách thể chế, bảo vệ quyền sở hữu và quyền tự do kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, nhất là trong đấu thầu, tiếp cận đất đai, tín dụng, khơi thông các nguồn lực xã hội hóa, đặc biệt trong hạ tầng số, năng lượng, logistics, những lĩnh vực mà khu vực tư nhân đôi khi gặp rào cản bởi thủ tục hành chính.
Khu vực kinh tế tư nhân, trong đó trọng tâm là doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm khoảng 98%) luôn có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp hơn 50% GDP, 30% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm (chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế). Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn, thách thức để phát triển nhanh, bền vững cả về số lượng, quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt động.
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đặc biệt quan tâm đến lực lượng chiếm đa số là doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh, như xóa bỏ thuế khoán, cung cấp phần mềm kế toán miễn phí, đơn giản hóa quản lý tài chính và đào tạo quản trị là những giải pháp thực chất để hỗ trợ họ chuyển đổi sang doanh nghiệp bài bản, minh bạch hơn. Chính sách tài chính của nghị quyết cũng tiếp thêm cơ hội cho phụ nữ, thanh niên, đồng bào dân tộc vươn lên.
Đối với Quảng Trị, toàn tỉnh hiện có 3.473 doanh nghiệp đang hoạt động. Năm 2024, khu vực kinh tế tư nhân nộp 1.170 tỉ đồng, chiếm 32% số thu nội địa và chiếm 81% số thu của doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
Thời gian qua, tỉnh cũng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, hỗ trợ đầu tư, đào tạo lao động; tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư, công bố các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn, công khai quy hoạch của tỉnh, quy hoạch vùng huyện, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; quy hoạch nông thôn mới để doanh nghiệp biết, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Hỗ trợ các cá nhân, tổ chức lập thủ tục hồ sơ xác lập quyền sở hữu công nghiệp, thúc đẩy và mở rộng thị trường tiêu thụ cho các doanh nghiệp...
Nhiều doanh nghiệp đã tạo dựng được thương hiệu, uy tín và có đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng nhưng doanh nghiệp tư nhân của tỉnh có hơn 91,5% quy mô nhỏ và siêu nhỏ (trong đó siêu nhỏ chiếm gần 60%); tiềm lực tài chính và trình độ quản trị còn hạn chế; phần lớn năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp, năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; việc tiếp cận nguồn vốn, đất đai, tài nguyên còn khó khăn.
Vậy nên, từ chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 68 và các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, nên nghiên cứu, ban hành những cơ chế, chính sách địa phương có tính đột phá mạnh mẽ để phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa nhanh, bền vững, tăng trưởng về số lượng, chất lượng, quy mô, hiệu quả hoạt động, như: Ưu tiên bố trí nguồn lực hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, trong đó tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh tham gia chuỗi giá trị; chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các mô hình kinh doanh mới; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tiếp tục tập trung triển khai quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tháo gỡ các rào cản, khó khăn, tạo điều kiện huy động tối đa nguồn lực của doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Có giải pháp hiệu quả đẩy mạnh hoạt động cho vay của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tạo kênh huy động vốn với chi phí hợp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; triển khai quyết liệt các chương trình, chính sách tín dụng cho doanh nghiệp.
Thực hiện triệt để việc đơn giản hóa quy trình, thủ tục, hồ sơ hỗ trợ ưu đãi thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp; nghiên cứu áp dụng phương thức hậu kiểm để doanh nghiệp nhỏ và vừa không bị ảnh hưởng về dòng tiền và hoạt động kinh doanh.
Tùng Lâm
Nguồn: https://baoquangtri.vn/ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-nhin-tu-nghi-quyet-68-194065.htm
Bình luận (0)