Tỉnh Thanh Hóa hiện có 82.000ha rừng đặc dụng, trong đó hệ động vật có 1.811 loài với 94 loài nguy cấp, quý hiếm. Nhiều năm qua, cùng với việc triển khai đồng bộ các giải pháp ngăn chặn tận gốc nạn săn bắn, vận chuyển, buôn bán và sử dụng động vật hóa dã, Ban Quản lý các khu bảo tồn, vườn quốc gia trên địa bàn tỉnh đã kêu gọi, thực hiện các chương trình, dự án cũng như huy động các nguồn lực để bảo tồn và phát triển các loại động vật hoang dã, trong đó ưu tiên cho các loại động vật đặc hữu, quý hiếm. Đến nay, nhiều chương trình dự án đã phát huy hiệu quả, góp phần bảo tồn các loài động vật quý hiếm tại các tiểu khu rừng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu hiện có 27.000ha rừng, trong đó có hơn 900 loài động vật quý hiếm. Để bảo tồn nguồn gen động thực vật đặc trưng, những năm qua, Ban Quản lý khu bảo tồn đã thực hiện các dự án khoa học, thông qua việc bẫy ảnh đã phát hiện nhiều động vật hoang dã như mèo rừng, mang thường, chồn bạc má, chồn họng vàng, gà rừng, gà mặt tiền, lửng lợn...
Tại các khu vực đặt bẫy ảnh cho thấy, nhiều động vật hoang dã đi theo đàn như mèo rừng, gấu ngựa, hoẵng, lợn rừng; phát hiện một số loài quý, hiếm gồm mang hoẵng vó vàng, rùa đầu to, rùa núi viền. Đối với chương trình nghiên cứu bộ gà họ trĩ, trong số 20 loài phát hiện được tại Khu bảo tồn có 9 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Sách Đỏ Thế giới. Đặc biệt, đơn vị đã tiến hành nghiên cứu, cho sinh sản tạo giống một số loài như gà lôi trắng, gà tiền mặt vàng để tái thả về rừng tự nhiên.

Thông qua chương trình dự án đã giúp Khu bảo tồn đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân bảo tồn động vật hoang dã. Ngoài ra, công tác điều tra giám sát chuyên sâu cũng xác định điều kiện phân bố, đặc tính sinh học để bảo vệ các loài này, tránh nguy cơ tuyệt chủng.
Ông Đàm Duy Đông, Phó Giám đốc Ban Quản lý Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Hu cho biết, thông qua các chương trình, dự án, đơn vị đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân tích cực tham gia bảo tồn động vật hoang dã. Lực lượng chức năng thường xuyên tuần tra, bảo vệ và phối hợp cơ quan chức năng nghiên cứu, đánh giá các loài để xác định tình trạng quần thể, khu vực sinh cảnh phân bố của những loài động vật đặc hữu để làm cơ sở bảo tồn loài. Đơn vị đang điều tra hiện trạng, phân bố quần thể của các loài động vật để xác định đặc điểm sinh thái, thành phần thức ăn, sinh cảnh sống, cấu trúc quần thể và các yếu tố đe dọa đến môi trường sống, nguy cơ suy giảm quần thể, cá thể.
Tại Vườn quốc gia Xuân Liên, ngoài công tác điều tra, bảo vệ loài, trong năm 2023, Ban Quản lý vườn đã đưa 60 con giống cầy vòi hương và cầy vòi mốc về nuôi thử nghiệm trong môi trường nuôi nhốt. Đến nay, các loài thú quý như cầy hương và cầy vòi mốc đã bắt đầu sinh sản. Thành công này giúp đơn vị tạo nguồn giống để thả về rừng tự nhiên cũng như khai thác và phát triển rộng rãi mô hình cho người dân vùng đệm.
Theo ông Phạm Anh Tám, Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Liên, sau thành công của mô hình này, đơn vị sẽ tạo nguồn giống để cung cấp cho các hộ dân. Tuy nhiên, việc đầu tư mô hình này đòi hỏi kinh phí lớn nên cần có các chương trình, dự án để hỗ trợ người dân nuôi cầy hương và cầy mốc. Thời gian tới, đơn vị sẽ tiếp tục nuôi bảo tồn, phát triển loài, góp phần bảo tồn các loài động vật quý hiếm tại các khu rừng Xuân Liên.
Các khu bảo tồn và vườn quốc gia trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã và đang thực hiện hơn 40 chương trình, dự án, đề tài khoa học về bảo tồn động vật hoang dã; qua đó, đã điều tra phát hiện, bổ sung danh mục 25 loài thú, 58 loài chim, 14 loài bò sát, trong đó có loài rắn khuyết Nam Động, 9 loài lưỡng cư. Các khu bảo tồn và vườn quốc gia cũng đã nghiên cứu và chăm nuôi sinh sản thành công nhiều loại động vật hoang dã như hươu sao, gà rừng, gà chim chỉ, cầy vòi hương, cầy vòi mốc... để thả về rừng, góp phần bảo tồn các loại động vật quý.
Ông Trần Văn Hùng, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn phát triển sinh vật và Dịch vụ môi trường rừng, Ban Quản lý Vườn quốc gia Bến En cho hay, thông qua các chương trình dự án bảo tồn, đơn vị đã đánh giá được hiện trạng các loài động vật, phạm vi phân bố từ đó đưa ra các giải pháp quản lý, bảo tồn loài; qua đó góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của nhân dân và chính quyền địa phương trong bảo tồn động vật hoang dã.
Các chương trình, dự án nghiên cứu, bảo tồn động vật hoang dã đã góp phần giúp các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia nắm bắt được số lượng, đặc tính sinh trưởng, môi trường sinh cảnh sinh sống cũng như các nguy cơ làm suy giảm số lượng, chất lượng các loại động vật hoang dã, từ đó xây dựng được các chương trình, giải pháp bảo tồn và phát triển các loại động vật hoang dã trong rừng tự nhiên.
Nguồn: https://cand.com.vn/doi-song/huy-dong-nguon-luc-bao-ton-phat-trien-dong-vat-hoang-da-quy-hiem-i770245/
Bình luận (0)