Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

K15 - dấu son nghĩa tình

Sau khi Quảng Trị được giải phóng, nhiệm vụ đặt ra cho tỉnh là vừa tập trung chiến đấu chống trả, đẩy lùi đợt hành quân tái chiếm của địch ra thị xã Quảng Trị, vừa tính phương án bảo vệ tính mạng Nhân dân vùng chiến sự dưới hai làn bom đạn. Trước yêu cầu cấp bách phải bảo vệ quê hương mới giải phóng, cuối tháng 6/1972, Tỉnh ủy Quảng Trị chủ trương tổ chức sơ tán Nhân dân hai huyện Hải Lăng, Triệu Phong ra hậu phương Gio Linh, Cam Lộ, Vĩnh Linh và Quảng Bình nhằm hạn chế thiệt hại về người. Chủ trương này xuất phát từ yêu cầu bức thiết lúc bấy giờ và nhanh chóng được Ban Bí thư Trung ương đồng ý.

Báo Quảng TrịBáo Quảng Trị25/06/2025

Cách đây 53 năm, dù quê hương đã được giải phóng nhưng người dân một số vùng ở Quảng Trị vẫn bước vào một “cuộc trường chinh màu đỏ” mang tên K15 để tránh đạn bom quân thù. Trong tháng ngày vất vả ấy, hàng vạn người đã đến mảnh đất Quảng Bình, sống trong sự đùm bọc, chở che của bà con nơi đây. Đến giờ, ký ức về quãng thời gian “muối đậm tình quê” vẫn rưng rức trong lòng các chứng nhân lịch sử và luôn được nhắc nhớ bằng những kết nối ân tình.

Bài 1: Từ chủ trương đúng đến cuộc di tản lịch sử

K15 - dấu son nghĩa tình

Ông Nguyễn Minh Kỳ ghi chép lại những dòng lịch sử K15 với mong muốn thế hệ sau không bao giờ quên - Ảnh: Q.H

Sơ tán khẩn cấp để bảo vệ dân

Ngôi nhà của ông Nguyễn Minh Kỳ, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị nằm giữa không gian xanh tươi, yên ả, như tách biệt với cái ồn ả, xô bồ phố hội. Tuy tuổi đã cao nhưng ông Kỳ vẫn giữ thói quen đọc báo hằng ngày. Trong dòng chảy thông tin gần đây, ông dành nhiều sự quan tâm đến việc hợp nhất tỉnh. “Hơn nửa thế kỷ trước, giữa khó khăn, người dân Quảng Bình đã “ôm bà con Quảng Trị vào lòng” để lại một dấu son trong lịch sử. Hôm nay, tôi tin truyền thống ấy vẫn được tiếp nối, mang đến nhiều vận hội”, ông Kỳ nói.

Chia sẻ của ông Nguyễn Minh Kỳ, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị mở ra trang sử K15, nơi lưu giữ nhiều câu chuyện đẹp về nghĩa tình Quảng Bình - Quảng Trị. Theo dòng hoài niệm, ông Kỳ kể, ngày 1/5/1972, quân và dân ta hợp đồng chặt chẽ tấn công, quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất, đập tan bộ máy kìm kẹp tàn bạo của Mỹ - ngụy, giải phóng hoàn toàn Quảng Trị.

Sau sự kiện này, nhiệm vụ đặt ra cho tỉnh là vừa tập trung chiến đấu chống trả, đẩy lùi các đợt hành quân tái chiếm của địch ra thị xã Quảng Trị, vừa bảo vệ tính mạng người dân. Trước yêu cầu cấp bách, tháng 6/1972, Tỉnh ủy Quảng Trị có chủ trương sơ tán người dân ra khỏi vùng bị ảnh hưởng bởi những cuộc phản kích của địch. Ông Kỳ kể: “Sau khi nhận được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng, tỉnh đã khẩn trương thành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh, huyện. Kế hoạch 15, đưa dân đến vùng an toàn nhanh chóng được xây dựng, gọi tắt là K15”.

Ngày 24/6/1972, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị có chỉ thị sơ tán dân ra khỏi các trọng điểm đánh phá của địch. Theo kế hoạch, hơn 8 vạn đồng bào Hải Lăng, Triệu Phong đã vượt qua bom đạn của địch sơ tán ra Gio Linh, Cam Lộ, Vĩnh Linh và một số xã thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Sau này, do sự ác liệt của những trận phản kích, nhiều người dân ở Hải Lăng, Cam Lộ, Gio Linh... cũng khăn gói lên đường, ra các xã ven biển thuộc huyện Lệ Thủy.

Là Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Cam Lộ thời điểm ấy, ông Kỳ vẫn nhớ như in không khí khẩn trương, quyết tâm nhưng cũng chất chứa nhiều nỗi lo. Cuộc sơ tán với quy mô lớn hàng vạn người, tiến hành trong điều kiện bị động, mức độ chiến tranh ác liệt. Trên đường đi sơ tán, người dân phải hứng chịu những trận oanh tạc dữ dội của máy bay Mỹ. Mưa bom, pháo đạn B52 rải thảm khiến nhiều người chết, nhiều gia đình ly tán người Bắc, kẻ Nam.

K15 - dấu son nghĩa tình

Ông Hoàng Sau, Trưởng Ban liên lạc K15 thôn Hà Tây (bên trái) và ông Lê Quang Học ôn lại những câu chuyện trong lần sơ tán của K15 -Ảnh: L.T

Theo ông Kỳ, Kế hoạch K15 khẳng định tính đúng đắn của nghệ thuật chiến tranh nhân dân, biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của cả nước nói chung, tỉnh Quảng Trị nói riêng, do yêu cầu của cuộc chiến, mỗi bên đều có những cách sơ tán dân khác nhau.Phía địch dồn gom dân vào các khu tập trung để dễ bề kiểm soát. Về phía ta, do tính chất cuộc chiến đấu và đặc điểm của chiến trường, tỉnh Quảng Trị chủ trương phân tán dân với nhiều kế hoạch sơ tán như K8, K10, K15... Với việc thực hiện Kế hoạch K15, tỉnh Quảng Trị đã vận dụng đúng đắn phương châm đấu tranh cách mạng, phương châm tác chiến phù hợp và sát với thực tế.

Nhắc đến quyết định quan trọng này, gương mặt ông Lê Văn Hoan, nguyên Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Quảng Trị, Bí thư Huyện ủy Hải Lăng từ năm 1967 đến năm 1973 dường như tươi hơn. Ở tuổi 95, ông Hoan không còn minh mẫn như xưa. Thế nhưng, Kế hoạch K15 vẫn luôn là mảng ký ức không thể nào quên đối với ông. Ông Hoan khẳng định, nếu không có quyết định sáng suốt này, những trận phản kích của địch sẽ cướp đi nhiều sinh mạng người dân. “K15 cũng chính là một trong những minh chứng sống động về tình nghĩa Quảng Bình - Quảng Trị”, ông Hoan nói.

Hành trình đầy thử thách

Tháng 8/1972, xã Triệu An, huyện Triệu Phong có khoảng 200 hộ dân đi sơ tán, trong đó người dân làng Hà Tây được sơ tán ra các xã Sen Thủy, Ngư Thủy, Hưng Thủy, Cam Thủy, Dương Thủy của huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thôn Sen Thượng 2 là điểm sơ tán xa nhất của người dân Hà Tây với khoảng 25 hộ dân đến ở.

Theo ông Hoàng Sau (sinh năm 1955), Trưởng Ban liên lạc K15 thôn Hà Tây, xã Triệu An (nay là xã Triệu Tân), huyện Triệu Phong, sau ngày giải phóng xã vào tháng 2/1972, tình hình ở Triệu An vẫn rất cẳng thẳng. Đến tháng 8/1972, chiến sự ở địa phương diễn ra rất ác liệt nên khoảng 200 hộ dân của xã đã được sơ tán ra vùng phía Bắc. Trong đó, thôn Hà Tây có khoảng 25 hộ ra ở thôn Liên Hiệp (nay là Sen Thượng 2) xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thời điểm này, ông Sau 17 tuổi, đang là du kích địa phương. Ông dẫn mẹ mình là bà Lê Thị Biu và chị gái Hoàng Thị Dảnh (26 tuổi) đang mang thai con đầu lòng đi sơ tán. Ba mẹ con ông Sau được bố trí vào ở nhà ông Tham.

Việc di chuyển sơ tán người dân Hà Tây ra phía Bắc chủ yếu bằng đường bộ nhưng phải qua 2 lần đò để sang sông Hiếu và sông Bến Hải. “Tình cảnh lúc đó rất nguy hiểm, khẩn cấp. Mọi người được lệnh lên đường sơ tán là đi liền chứ không kịp chuẩn bị gì. Trong đoàn sơ tán của thôn lúc bấy giờ, khi qua đò ở Cửa Việt thì bà Trần Thị Dỏ chuyển dạ sinh con. Tôi nhớ lúc ấy trên đò đông lắm. Mọi người chen lấn, xô đẩy thế nào mà đứa bé lọt lòng mẹ rơi xuống nước. May mà người trên đò vớt lên kịp, quấn đứa bé vào chăn ủ ấm rồi tiếp tục vượt sông lên đường đi ra phía Bắc. Điều đáng mừng là đứa bé vẫn sống khỏe mạnh, được đặt tên là Hùng. Bà con Lệ Thủy cưu mang cả 2 mẹ con”.

K15 - dấu son nghĩa tình

Người dân thôn Sen Thượng 2, xã Sen Thủy, chia sẻ ký ức về những tháng ngày đùm bọc người dân huyện Triệu Phong lúc sơ tán theo Kế hoạch K15 - Ảnh: L.T

Ở vùng sơ tán, một số em bé người Quảng Trị cũng đã chào đời trong tình yêu thương của mọi người. Cháu trai của ông Sau là một trong số đó. Ông Sau cho biết, ra vùng sơ tán ở được khoảng 2 tháng thì chị gái ông đến kỳ sinh nở. “Cảm động nhất là hình ảnh của bác Tham - chủ nhà không quản ngại nguy hiểm, ngày đêm lên rú Hồng Leo chặt cây rồi về đào đất dựng thành một căn hầm trú ẩn nhỏ, đặt vừa đủ chiếc chõng tre nhưng lại là nơi đảm bảo an toàn cho chị tôi sinh con”, ông Sau kể.

Ông Lê Quang Học, một người dân thôn Hà Tây vẫn còn nhớ như in cảnh sơ tán của gia đình vào thời điểm năm 1972. “Lúc đó, ba tôi vác trên vai một ít khoai khô và mấy bộ áo quần cho cả nhà. Mẹ tôi gánh đôi gióng 2 đầu là 2 đứa em của tôi: Huyền (3 tuổi) và Hoàn (3 tháng tuổi). Tôi lúc đó khoảng 6 tuổi chạy bộ theo ba mẹ. Ra đến Vĩnh Linh, có bác cho một bó chè xanh, tôi gùi bó chè sau lưng rồi cứ lon ton chạy theo đoàn người sơ tán. Trên đầu thì máy bay, pháo ngoài Hạm đội 7 bắn vào, mọi người đi nhanh lắm, cứ bám theo triền cát đi như chạy. Ra đến bờ Nam sông Bến Hải thì nghỉ lại dưới hầm, đợi đò của bộ đội và người dân trong vùng chở qua sông vào ban đêm để tránh bị máy bay địch phát hiện. Sau đó, mọi người tiếp tục bám theo cán bộ dẫn đường qua các đường tắt hướng về phía Bắc nhằm tránh sự phát hiện của máy bay địch”.

Mỗi khi đi đường mệt quá, mọi người trong đoàn hỏi còn xa hay gần nữa? Cán bộ dẫn đường nói: “Còn cuống rạ nữa thôi” (ý nói còn đoạn đường ngắn nữa thôi để động viên bà con). Nghe vậy, ai cũng phấn chấn hẳn lên. Nhờ thế, đường xa dường như gần lại.

Ở tuyến lửa, người dân Quảng Trị dường như đã quá quen với những chuyến sơ tán. Đó là một hành trình đầy thử thách, đánh đổi bằng cả máu và nước mắt. K15 không phải là ngoại lệ. Để ra xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy, người dân vùng Triệu Vân, Triệu Lăng, Triệu Độ... phải đi bằng đường biển. Những người dân sơ tán khác gùi cõng, gánh gồng con cái, lương thực, đồ dùng... theo đường bộ ra Quảng Bình. Suốt chặng đường, ai nấy mải miết đi trong tiếng trống ngực. Sự lo lắng ấy là có cơ sở. Bởi, tại xã Sen Thủy, một nhóm 7 người sơ tán đã tử vong sau cuộc rải thảm B52 của quân thù. Trải qua vất vả, hiểm nguy, cuộc gặp gỡ của người dân Quảng Bình - Quảng Trị thấm đẫm nước mắt.

Quang Hiệp - Lâm Thanh

Bài 2: Năm tháng qua đi, nghĩa tình ở lại

Nguồn: https://baoquangtri.vn/k15-dau-son-nghia-tinh-194597.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

DIFF 2025 - Cú hích bùng nổ cho mùa du lịch hè Đà Nẵng
 Đi theo bóng mặt trời
Vòng cung hang động kỳ vĩ ở Tú Làn
Cao nguyên cách Hà Nội 300km có biển mây, thác nước, khách rộn ràng reo vui

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm