Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

K15 - dấu son nghĩa tình: Bài 2: Năm tháng đi qua, nghĩa tình ở lại

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, ký ức K15 vẫn vẹn nguyên trong tâm trí của nhiều người dân Quảng Bình - Quảng Trị. Câu chuyện về kế hoạch sơ tán dân không đơn thuần là trang sử viết về sự đùm bọc, hy sinh, mà còn là minh chứng hùng hồn cho nghĩa tình sâu nặng giữa hai mảnh đất, vạn tấm lòng đã cùng nhau vượt qua những thử thách khốc liệt nhất của chiến tranh, để lại một di sản về tình đoàn kết.

Báo Quảng TrịBáo Quảng Trị26/06/2025

4 chia” trong gian khó

Đến giờ, các bậc cao niên ở huyện Lệ Thủy vẫn nhớ như in khẩu hiệu “4 chia”: chia nhà, chia cửa, chia lửa, chia máu với đồng bào Quảng Trị. Giữa chồng chất khó khăn, hầu như mỗi hộ dân ở các xã: Ngư Thủy, Sen Thủy, Cam Thủy, Hương Thủy, Tân Thủy, Hồng Thủy... đều tình nguyện nhận kết nghĩa, chăm nuôi ít nhất một gia đình từ Quảng Trị ra sơ tán.

K15 - dấu son nghĩa tình: Bài 2: Năm tháng đi qua, nghĩa tình ở lại

Ông Trần Văn Đoái chia sẻ với các bạn trẻ về những ký ức K15 - Ảnh: Q.H

Lần theo dữ liệu lịch sử, chúng tôi đến huyện Lệ Thủy, tìm gặp các chứng nhân K15 ở xã Ngư Thủy và Sen Thủy. Khi nghe phóng viên chia sẻ mong muốn, Chủ tịch UBND xã Ngư Thủy Hoàng Ngọc Hiến ôn tồn nói: “Ở đây, chỉ cần bước ra cổng, gặp bất cứ ai, anh cũng có thể nghe những câu chuyện về K15. Bởi nhiều năm nay, các cụ ông, cụ bà vẫn kể những dòng ký ức này để nhắc nhủ con cháu phải nêu cao tinh thần đoàn kết, đùm bọc, sẻ chia, nhất là trong khó khăn, hoạn nạn”, ông Hiến nói.

Theo chân cán bộ UBND xã Ngư Thủy, chúng tôi ghé thăm gia đình ông Trần Văn Đoái, trú tại thôn Liêm Bắc. Ở tuổi gần 80, ông Đoái vẫn nhớ rành rọt ký ức K15. Ông kể, thời điểm ấy, gia đình mình có 6 thành viên. Cần mẫn bám biển nhưng cả nhà mãi chưa dứt ra khỏi nỗi lo cơm áo.

Thế nhưng, khi hay tin một gia đình có 4 người từ huyện Triệu Phong ra Ngư Thủy sơ tán cần nơi ở, cả nhà tất tả đi đón về. “Bấy giờ, chúng tôi rất lo. Gia đình tôi chịu cực quen rồi, có vất vả thêm cũng không sao, chỉ lo cho người dân sơ tán. Lo vậy nên gia đình tôi san sẻ hết những gì mình có, không phân biệt chủ, khách.

Nhờ thế, tình cảm giữa hai gia đình khăng khít thêm. Giờ đây, con cháu hai bên vẫn giữ mối tâm giao. Mỗi lúc đau ốm, gia đình tôi lại ra TP. Đông Hà, nhờ bác sĩ Khích giúp đỡ. Hồi 4 thành viên trong nhà ra đây sơ tán, cậu ấy gầy nhẳng, bé xíu, giờ thì tóc đã điểm bạc rồi”, ông Đoái kể.

Cách nhà ông Đoái không xa, gia đình ông Lê Quang Mịnh cũng lưu giữ nhiều ký ức về K15. Đưa đôi mắt nhìn xa xa, ông Mịnh cho biết, thời ấy, gia đình mình nghèo nhất nhì xã. Ba mất sớm, mẹ ông phải bươn bả nuôi 3 người con trong khó nhọc. Vậy mà, nghe tin người dân từ Quảng Trị ra, bà vẫn xung phong giúp đỡ.

“Tôi vẫn còn nhớ như in, gia đình mình đón hai lượt bà con đi sơ tán. Đợt đầu có 4 người, đến ở một thời gian rồi chuyển đi. Sau đó, mẹ con tôi đón 5 thành viên gia đình bà Bồng. Sợ chúng tô i còn nhỏ, nói năng không khéo lại làm mất lòng khách, mẹ luôn miệng căn dặn. Dần dần, khoảng cách khách, chủ không còn. Chúng tôi chia ngọt, sẻ bùi, xem nhau như người nhà. Đến giờ, tôi vẫn nhớ từng khuôn mặt”, ông Mịnh chia sẻ.

K15 - dấu son nghĩa tình: Bài 2: Năm tháng đi qua, nghĩa tình ở lại

Ông Lê Quang Mịnh nở nụ cười khi nhắc đến những kỷ niệm của một thời vất vả nhưng rất nghĩa tình - Ảnh: Q.H

Ở xã Sen Thủy, ông Trần Công Hoan (sinh năm 1956), trú tại thôn Sen Thượng 2, vẫn thường kể cho con cháu nghe câu chuyện về K15. Thời điểm đó, ông Hoan là Tiểu đội trưởng Tiểu đội dân quân du kích Đội sản xuất số 7, thôn Liên Hiệp (nay là Sen Thượng 2).

Ông Hoan nhớ lại: “Những người dân Quảng Trị sơ tán ra tập trung ở nhà kho của Đội sản xuất số 7. Theo sự phân công sắp xếp của cán bộ xã thì mỗi gia đình trong thôn đón một gia đình ở Quảng Trị về ở, một số gia đình đông người thì phải chia ra ở 2 nhà. Thôn Liên Hiệp thời đó có khoảng 40 hộ và gia đình nào cũng có đón người Quảng Trị ra sơ tán về ở”.

Theo ông Hoan, gia đình ông ngày đó ở vùng Trạng Côộc. Cuộc sống rất nghèo khổ, nhà tranh vách đất, khoai, sắn ăn thay cơm trừ bữa mà vẫn không đủ. Gia đình ông Hoan đón vợ chồng ông Lê Quang Trung và 3 người con là: Lê Quang Học (6 tuổi), Lê Thị Huyền (3 tuổi) và Lê Quang Hoàn (3 tháng tuổi) về ở. Khác với người dân địa phương, đồng bào Quảng Trị sơ tán ra đây hằng tháng có gạo trợ cấp của Nhà nước với định mức 9 - 13,5 kg/người/tháng (tùy theo độ tuổi).

Vì thế mà người dân ngoài này quyết định sống chung nhưng nấu ăn riêng để không sử dụng lương thực, thực phẩm của đồng bào sơ tán.

“Nhưng rồi bà con Quảng Trị ra đây luôn san sẻ với người dân ngoài này nên nấu riêng mà lại ăn chung. Chia sẻ được gì mọi người đều sẵn lòng với nhau hết. Để tránh bom đạn, ngoài này có 2 loại là hầm ngang và hầm chữ A. Gia đình chúng tôi ở hầm ngang (lớp đất che phủ mỏng, không an toàn bằng hầm chữ A), còn hầm chữ A thì dành cho gia đình ông Trung. Không riêng gì gia đình tôi mà cả làng này đều thế, chỗ nào an toàn nhất là ưu tiên cho người dân sơ tán”, ông Hoan nhớ lại.

Sự hy sinh lặng thầm

Trên hành trình ngược dòng thời gian tìm kiếm những mảnh ghép ký ức K15, chúng tôi vô tình gặp ông Đặng Ngọc Thành (sinh năm 1958), trú tại Phường 5, TP. Đông Hà. Ông Thành sinh ra, lớn lên ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, đã có 46 năm sống ở Quảng Trị. Nhắc đến ký ức K15, đôi mắt ông nhòa đi vì nhớ về người mẹ đã mất.

“Mẹ tôi là Phạm Thị Dung, nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Lệ Thủy. Thời điểm ấy, bà đảm nhận trách nhiệm Trưởng Ban K15. Hình ảnh mẹ ngược xuôi, tảo tần lo cho người dân Quảng Trị đi sơ tán và những câu chuyện bà kể vẫn in sâu trong trái tim tôi”, ông Thành bộc bạch.

K15 - dấu son nghĩa tình: Bài 2: Năm tháng đi qua, nghĩa tình ở lại

Ông Trần Công Hoan (bên trái) ở thôn Sen Thượng 2, xã Sen Thủy là người thường xuyên liên lạc với các thế hệ K15 ở thôn Hà Tây - Ảnh: L.T

Theo lời kể của ông Thành, sau khi nhận được chỉ đạo từ trung ương về việc đón người dân sơ tán, mẹ ông cùng các cán bộ địa phương đã đến từng thôn, từng nhà để thông tin, tuyên truyền, vận động người dân. Lãnh đạo UBND huyện Lệ Thủy cử ra một ban đặc trách để chăm lo đời sống cho bà con sơ tán. Từ thời điểm nhận nhiệm vụ, hầu như hôm nào, mẹ ông cũng lái một chiếc xe đạp cũ ngược xuôi về các xã mặc cái rét tê tái trời đông hay những cơn gió Lào ràn rạt...

Ông Thành kể: “Thời điểm ấy, em út của tôi mới sinh được ít tháng. Mẹ đi miết nên em tôi cứ khóc ngằn ngặt vì đói sữa. Ba tôi phải vắt con lên vai, đi quanh miệng hầm phòng không, ru ời ời cho đến khi mẹ tôi về, có khi gần nửa đêm. Mẹ cứ để nguyên áo quần dính bùn đất, vén áo cho em tôi bú”.

Cứ thế, bà Phạm Thị Dung, mẹ của ông Thành và các cán bộ cùng thời ngày nối ngày dường như phân thân để lo liệu cho ngót nghét 2 vạn người dân Quảng Trị đi sơ tán. Nhà thiếu ăn nhưng bà vẫn cứ phải lo đủ gạo, vải, muối, mắm... cho mỗi nhân khẩu đi sơ tán. Mỗi lần trở về nhà, mẹ ông Thành đều kể những câu chuyện cảm động.

Dù sống cảnh “ăn nhờ ở đậu” nhưng nhiều lần đi lĩnh gạo, người dân sơ tán vẫn đòi bớt lại cho bộ đội, cho miền Nam ruột thịt. Khi mẹ ông Thành và các thành viên trong ban không nhận, có người quỳ trước sân cho đến khi đồng ý mới thôi.

“Sau khi nghỉ hưu, gia sản mẹ tôi mang về là một chiếc xe đạp cà tàng và đôi dép lốp. Mỗi lần thấy mình có thể không đủ sức chống chọi nổi với tuổi già, bệnh tật, mẹ lại đòi con cháu chở vào Quảng Trị, thăm Thành Cổ, sân bay Ái Tử... Bà muốn nhìn làng, nhìn xóm dọc đường đi để được thấy “cái hoang tàn, đổ nát đến xót rọt” mà mình từng chứng kiến ngày đưa bà con sơ tán trở về nay không còn nữa”, ông Thành trải lòng.

Thực tế, cũng như nhiều cán bộ Lệ Thủy năm xưa, câu chuyện về sự hy sinh thầm lặng và tinh thần “một lòng vì bà con Quảng Trị đi sơ tán” của bà Phạm Thị Dung hiếm khi được nhắc đến. Bởi, bản thân họ chưa bao giờ muốn “nêu công, kể trạng” của mình. Ngay những người được các cán bộ năm xưa cưu mang, giúp đỡ có lẽ cũng chỉ biết đến vài lát cắt, khía cạnh. Thế nhưng, sự hy sinh thầm lặng, tình yêu bền bỉ của họ cũng như nhiều người dân Lệ Thủy khác không vì thế mà mất đi giá trị. Ngược lại, nó vun đắp ân tình, có ý nghĩa sâu sắc cho đến tận hôm nay.

Ân tình không nhạt phai

Trong gần 1 năm (1972 -1973) sinh sống và lao động trên vùng đất sơ tán Lệ Thủy, người dân các huyện Triệu Phong, Hải Lăng, đã cùng với Nhân dân Quảng Bình dựng xây nên mối quan hệ đặc biệt, gắn bó, đoàn kết, tương thân tương ái, chí tình chí nghĩa để vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Tình nghĩa K15 keo sơn là thế nên khoảnh khắc chia tay năm xưa cũng đầy bịn rịn, lưu luyến.

Sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, đầu năm 1973, người dân các xã vùng biển Lệ Thủy tổ chức tiễn bà con K15 trở về quê cũ. Nặng nghĩa, nặng tình, nhiều người đưa đoàn đến tận những làng xóm trơ trụi, tan hoang ở Triệu Phong, Hải Lăng... Trên vai ai nấy là đôi quang gánh đầy ngọn khoai, hom sắn, con giống, lúa giống... do người dân Lệ Thủy tặng để bà con về quê cũ có thể bắt tay ngay vào vụ sản xuất.

Sau ngày giải phóng, khó khăn chồng chất, vì cuộc sống mưu sinh, phương tiện liên lạc, đi lại khó khăn nên có một thời gian nhiều người dân K15 ở Quảng Trị bị gián đoạn thông tin với bà con vùng Lệ Thủy.

Ông Hoàng Sau, Trưởng Ban liên lạc K15 thôn Hà Tây, xã Triệu An (nay là xã Triệu Tân), huyện Triệu Phong cho biết: “Hòa bình lập lại, chúng tôi trở về quê cũ, trải qua biết bao gian nan, vất vả để xây dựng lại nơi ăn, chốn ở, khắc phục hậu quả chiến tranh để lại trên quê hương Quảng Trị. Dù vậy, hầu như ai cũng đau đáu trong lòng mong muốn được một ngày trở lại thăm chính quyền và Nhân dân Sen Thượng 2 - nơi đã hết lòng, hết sức, nặng nghĩa tình cưu mang, đùm bọc chúng tôi trong những tháng năm bom đạn ác liệt”.

Cũng theo ông Sau, năm 2019, Ban liên lạc K15 thôn Hà Tây ra đời và tổ chức chuyến hành trình tri ân với sự tham gia của 25 hộ gia đình (khoảng 50 người). Mọi người cùng nhau ra thôn Sen Thượng 2 để gặp gỡ những gia đình trước đây mình từng ở. Ban liên lạc K15 thôn Hà Tây đã hợp đồng thuê xe tập trung cho các hộ gia đình cùng đi. Trước khi diễn ra buổi gặp mặt chung ở hội trường thôn, các hộ gia đình đều tìm về gia đình từng ở thắp hương báo cáo người đã khuất; cảm ơn những người đã từng cưu mang, giúp đỡ gia đình mình trong khó khăn, hoạn nạn.

“Mẹ tôi và bác Tham cưu mang gia đình tôi đều đã mất. Thế nhưng, tôi vẫn liên lạc, kết nối để có buổi gặp mặt đầu tiên này với mong muốn truyền lại cho con cháu mình những câu chuyện nghĩa tình của K15. Chúng tôi có được ngày hôm nay là nhờ bà con nơi đây đã chia ngọt, sẻ bùi trong những ngày tháng cơ cực nhất. Ân tình đó chúng tôi mãi khắc ghi”, ông Sau chia sẻ.

Ông Hoàng Sau cho biết thêm, hầu hết những người lớn tuổi sơ tán theo Kế hoạch K15 đều đã mất. Lớp trẻ đi K15 có nhiều người hiện công tác trong lực lượng vũ trang, là bác sĩ, cán bộ xã... Dù đi đâu làm gì, họ vẫn luôn mang trong lòng miền ký ức, tình cảm sâu nặng đối với bà con Sen Thủy.

“Chúng tôi luôn coi vùng đất từng cưu mang mình là quê hương thứ hai. Nay hai tỉnh sáp nhập lại, chúng tôi cảm thấy rất vui vì đã trở thành đồng hương. Hiện nay, dù những người lớn tuổi đã qua đời nhưng con cháu nhiều gia đình K15 ở thôn Hà Tây vẫn thường xuyên giữ mối liên lạc. Khi có cưới hỏi, tiệc liên hoan hay việc tang, giỗ chạp họ đều mời nhau về tham dự như người ruột thịt”, ông Sau tâm sự.

Dự kiến thời gian tới, những gia đình từng nuôi K15 ở Sen Thượng 2 sẽ vào gặp mặt bà con thôn Hà Tây. Ban liên lạc 2 thôn sẽ thống nhất quy chế quy định về thời gian, địa điểm, một số nội dung sinh hoạt để trở thành cầu nối thắt chặt tình thương, tinh thần đoàn kết qua các thế hệ con cháu K15, tạo nên mối quan hệ tình cảm gắn bó keo sơn, bền chặt, góp phần thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết giữa các miền quê trong cuộc sống hôm nay.

Không chỉ ở thôn Hà Tây, như một mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, nghĩa tình Quảng Bình - Quảng Trị trong những nhân chứng sống của Kế hoạch K15 và con cháu họ vẫn lặng lẽ, bền bỉ chảy mãi. Vì thế, dù năm tháng trôi qua, dù trải bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, của cuộc sống, họ vẫn nhớ đến và kết nối bền chặt với nhau. Giờ đây, khi Quảng Bình - Quảng Trị về chung một nhà, những trái tim nồng ấm yêu thương ấy lại ngày càng đồng điệu, cùng chung sức, chung lòng xây quê hương ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Lâm Thanh – Quang Hiệp

Nguồn: https://baoquangtri.vn/k15-dau-son-nghia-tinh-bai-2-nam-thang-di-qua-nghia-tinh-o-lai-194618.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

DIFF 2025 - Cú hích bùng nổ cho mùa du lịch hè Đà Nẵng
 Đi theo bóng mặt trời
Vòng cung hang động kỳ vĩ ở Tú Làn
Cao nguyên cách Hà Nội 300km có biển mây, thác nước, khách rộn ràng reo vui

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm