Bến Nhà Rồng - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi đầu cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước.
Hiện thân của khát vọng độc lập
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Khát vọng lớn lao ấy chính là hành trang, là điểm tựa tinh thần, để nâng đỡ và thôi thúc Người, vượt lên muôn vàn nghịch cảnh, từng bước “phá tan đám sương mù cản trở” để tìm ra con đường đưa dân tộc thoát khỏi ách nô dịch lầm than.
Để rồi, ngày 5/6/1911 đã trở thành thời khắc lịch sử của dân tộc Việt Nam. Cái thời khắc thế kỷ đã và sẽ mãi mãi gọi tên người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành như là hiện thân của khát vọng độc lập, tự do không chỉ cho dân tộc Việt Nam, mà còn cho cả các dân tộc chịu áp bức, nô lệ. Bởi trên hành trình qua năm châu bốn biển và làm nhiều việc để mưu sinh, Người đã nhận thức và vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản. Đó là “Ở đâu đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính; ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, đứng lên đấu tranh giải phóng”.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Người giải đáp những vấn đề cơ bản về con đường giải phóng dân tộc mà Người tìm kiếm bấy lâu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Những tác động lớn lao của Luận cương lên suy nghĩ, tình cảm đã khiến Người - dù 40 năm sau, với tư cách vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - vẫn nguyên ấn tượng mạnh mẽ. Người viết: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.
Tháng 12/1920, Người gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu sự chuyển biến mang tính bước ngoặt trong tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. Sau khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Người tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin về trong nước, mang đến một luồng gió mới để thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sản ở nước ta trong những năm 30 của thế kỷ XX. Đồng thời, đặt nền móng cho sự ra đời của chính đảng vô sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Người soạn thảo. Cương lĩnh ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sự ra đời của Đảng đánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trở thành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ đó, mở ra thời đại rực rỡ Việt Nam, với những dấu ấn lịch sử và tầm vóc thời đại.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã vùng lên mạnh mẽ, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đồng thời, phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, quyết tâm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, dân tộc ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Để khi đứng trước cuộc chiến tranh khốc liệt, trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nêu cao quyết tâm trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”. Và đúng như Người tiên liệu, chiến thắng lịch sử 30/4/1975 đã một lần nữa khẳng định ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam.
Biểu tượng của hòa bình đích thực
Chủ tịch Hồ Chí Minh - ngay từ bước chân đầu tiên đặt lên hành trình vạn dặm tìm đường cứu nước- luôn mang trong trái tim Người khát vọng cháy bỏng: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Trong tư tưởng của Người, hạnh phúc của người dân đơn giản là quyền sống, từ đó phát triển một dân tộc, một quốc gia hạnh phúc. Đó là một xã hội do Nhân dân lao động làm chủ, bình đẳng, không có chế độ người bóc lột người, một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”.
Từ hành trình tìm đường cứu nước, đến lãnh đạo Nhân dân ta giành được những thắng lợi lẫy lừng, tư tưởng và khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã trở thành khát vọng chung của những dân tộc nô lệ. Cả cuộc đời Người không chỉ chiến đấu chống áp bức bất công, đem lại cuộc sống ấm no cho Nhân dân, cho dân tộc Việt Nam, mà còn là mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Khi nói về người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Rômét Chăndra, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, đã khẳng định: “Bất cứ nơi nào, Nhân dân chiến đấu cho độc lập và tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ nơi nào, Nhân dân chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ nơi nào, Nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao (...). Đứng bên cạnh Hồ Chí Minh, phong trào hòa bình thế giới đã thấy rõ hơn bao giờ hết sự gắn bó sống còn giữa cuộc đấu tranh cho hòa bình với cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tự do, cuộc đấu tranh cho chính nghĩa và cuộc đấu tranh cho CNXH”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của khát vọng hòa bình, thậm chí là của nền văn hóa hòa bình. Hòa bình không chỉ là không có tiếng súng của kẻ xâm lược, không có máu và nước mắt của Nhân dân; mà còn là một nền hòa bình đích thực, dựa trên nền tảng căn bản là độc lập, chủ quyền dân tộc, là hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân; là dựa trên các giá trị của văn hóa, đạo đức và tinh thần nhân văn “tất cả vì con người”. Ngày nay, mặc dù xu thế lớn của thời đại là hòa bình, hợp tác và phát triển; thế nhưng, những xung đột, chia rẽ đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới, khiến cho nền hòa bình càng trở nên mong manh. Để rồi, nhìn lại Việt Nam - quốc gia từng trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ - mới càng thêm thấm thía giá trị của hòa bình, càng thêm trân quý vẻ đẹp của hòa bình. Đặc biệt, càng hiểu sâu sắc hơn lời chỉ dạy của Bác Hồ, rằng Việt Nam mong muốn hòa bình, nhưng không phải thứ hòa bình được “ban phát” có điều kiện, mà phải là nền hòa bình thực sự do tự mình giành lấy và dù có phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” cũng quyết tâm giữ cho bằng được.
Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn”, “to đẹp hơn”, đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin và từ đó, Người đã dẫn dắt dân tộc ta đi trên con đường của ánh sáng vinh quang. Để rồi, dẫu trong thế giới đầy biến động hiện nay, nhưng di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh - đặc biệt là tinh thần nhân đạo và khát vọng hòa bình, tự do và hạnh phúc, tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính, sẽ mãi là những giá trị trường tồn. Và “Hồ Chí Minh sẽ còn ở lại mãi mãi trong lòng những chiến sĩ đấu tranh cho công lý, tự do và độc lập của dân tộc mình như là một trong những người kế tục vĩ đại và kiên cường nhất con đường của Các Mác và Lênin” (D. T. Novikov, Bí thư Đảng Cộng sản Liên bang Nga).
Bài và ảnh: Khôi Nguyên
Nguồn: https://baothanhhoa.vn/ky-niem-114-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc-5-6-1911-5-6-2025-nguoi-nhu-tieng-sam-mua-xuan-250913.htm
Bình luận (0)