Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội trong bối cảnh mới

TCCS - Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, vấn đề bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, đề cao việc thực hiện phúc lợi xã hội, an sinh xã hội gắn với tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm tính bền vững trong chính sách xã hội, chú trọng nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản13/08/2025

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Lễ khai giảng năm học 2024 - 2025 tại Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội_Ảnh: TTXVN

Bối cảnh mới và kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội

Sau đại dịch COVID-19 đến nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi, tạo cơ hội và thách thức mới cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết vấn đề xã hội nói riêng.

Một là, tình hình chính trị, kinh tế thế giới biến động phức tạp, khó lường, nhiều cuộc xung đột trên thế giới, sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn... tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, khi Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn, từ đó gây ra rủi ro về việc làm, thu nhập của người lao động, cũng như nguồn lực dành cho bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội.

Hai là, sự nổi lên của xu hướng chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và sự phát triển của khoa học - công nghệ vừa tạo ra cơ hội mới để bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội, vừa gây ra thách thức mới về việc làm, thu nhập, về bất bình đẳng số, về nguy cơ tụt hậu kinh tế kéo theo vấn đề an sinh xã hội.

Ba là, quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và định hướng phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới tạo ra đột phá, xung lực mới để giải quyết an sinh xã hội và vấn đề xã hội, đồng thời gây ra thách thức ngắn hạn trong bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội. Dưới góc độ việc làm và thị trường lao động, việc sắp xếp lại bộ máy gắn với tinh giản biên chế sẽ chuyển dịch một bộ phận lao động từ khu vực công sang khu vực tư, một mặt, cung cấp thêm nguồn lực lao động cho thị trường, mặt khác, tạo áp lực cho việc giải quyết việc làm cho người lao động, chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động từ khu vực công sang khu vực tư cũng như gây nguy cơ chảy máu chất xám của khu vực công.

Bốn là, biến đổi khí hậu đang tác động mạnh mẽ đến Việt Nam, làm gia tăng rủi ro an sinh và vấn đề xã hội có liên quan. Đồng thời, xu thế của thế giới cũng như chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi xanh, tăng trưởng xanh, giảm phát thải ròng và phát triển bền vững tạo ra thách thức và cơ hội đối với giải quyết vấn đề xã hội. Biến đổi khí hậu gây ra rủi ro đối với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt đối với sinh kế của người nghèo và đối tượng yếu thế. Đồng thời, quá trình chuyển đổi xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu tạo ra cơ hội việc làm, cơ hội phát triển mới. Môi trường tốt hơn sẽ nâng cao sức khỏe, giảm áp lực về chăm sóc y tế.

Năm là, xu hướng già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng tại Việt Nam đặt ra thách thức an sinh xã hội và vấn đề xã hội liên quan. Tính từ năm 2010, tỷ lệ sinh tự nhiên giảm từ mức 10,27‰ xuống 9,1‰ vào năm 2022 nhờ vào việc tỷ suất sinh thô giảm từ 17,07‰ xuống 15,2‰ và tỷ suất chết thô giảm từ 6,8‰ xuống còn 6,1‰. Điều này tạo ra thách thức đối với lực lượng lao động, tăng trưởng kinh tế, cũng như làm tăng nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi.

Sáu là, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh chóng tạo ra thách thức đối với an sinh xã hội và vấn đề xã hội. Đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm, nghề nghiệp. Nhờ đó, thu nhập, điều kiện sống, khả năng bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội được nâng cao, người lao động có cơ hội hưởng điều kiện vật chất và tinh thần tốt hơn.

Đại dịch COVID-19 gây ra tác động tiêu cực đến an sinh xã hội, làm nảy sinh và trầm trọng hơn nhiều vấn đề xã hội ở các nước trên thế giới. Vì vậy, các nước trên thế giới đã thực hiện nhiều biện pháp, vừa ứng phó với đại dịch, hỗ trợ đối tượng gặp tác động tiêu cực từ đại dịch, đặc biệt là đối tượng yếu thế, vừa nghiên cứu đổi mới hệ thống an sinh xã hội và chính sách xã hội sau đại dịch nhằm phù hợp bối cảnh mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội. Trong đó, có thể thấy:

Một là, điều chỉnh chính sách vừa để hỗ trợ lao động, việc làm trong và sau đại dịch, vừa thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu nghề nghiệp, thích ứng với điều kiện nhân khẩu, điều kiện kinh tế - xã hội và xu hướng mới. Trong đó, tập trung vào một số định hướng chủ yếu sau: 1- Tạo việc làm mới thông qua chính sách khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển theo hướng sử dụng công nghệ số, công nghệ xanh và phát triển bền vững; 2- Thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động thích ứng với thay đổi và đòi hỏi mới của thị trường lao động trong quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; 3- Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội tốt để tạo mạng lưới an toàn cho người lao động trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp; 4- Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo thích ứng với yêu cầu mới của quá trình chuyển đổi xanh và ứng dụng khoa học, công nghệ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hai là, đại dịch COVID-19 làm bộc lộ vấn đề bao phủ và tiếp cận hệ thống bảo hiểm xã hội cũng như tính bền vững của hệ thống. Do đó, trong và sau đại dịch, nhiều nước đã điều chỉnh hệ thống bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng diện bao phủ, đặc biệt đối với chế độ hưu trí, nâng cao mức thụ hưởng cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Khuyến khích người lao động tiếp tục làm việc sau khi nghỉ hưu. Chính sách bảo hiểm xã hội tập trung vào tăng cường khả năng tiếp cận và phạm vi bao phủ của bảo hiểm xã hội đối với người dân; thực hiện biện pháp xây dựng quỹ hưu trí bền vững trong xu hướng già hóa dân số. Đổi mới phương thức đóng bảo hiểm, đối tượng đóng bảo hiểm và cách thức quản lý quỹ hưu trí là biện pháp được nhiều quốc gia sử dụng để mở rộng phạm vi bao phủ của bảo hiểm xã hội. Chính sách nhằm cải cách đối với lương hưu được các quốc gia trên thế giới áp dụng có thể chia thành hai nhóm lớn: Cải cách nhằm bảo đảm tính bền vững và đầy đủ lâu dài của hệ thống lương hưu; chính sách mở rộng quyền tiếp cận chế độ phúc lợi lương hưu cho một số nhóm nhất định, thông qua khả năng mới về đóng góp có thể mua được hoặc sáng kiến lương hưu mới.

Ba là, về trợ giúp xã hội, các nước đã có chính sách linh hoạt, mở rộng đối tượng để trợ giúp, trong đó chú trọng là trợ giúp bằng tiền mặt cho người dân trong và sau đại dịch nhằm khắc phục tác động tiêu cực của đại dịch đến đời sống người dân, nhất là các đối tượng yếu thế. Đại dịch cho thấy nhu cầu quan trọng của khu vực châu Á và Thái Bình Dương trong việc tiếp tục xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội hiện đại, toàn diện hơn và có khả năng ứng phó với cú sốc và thích nghi với biến động mới của thị trường lao động.

Bốn là, về tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, nhiều quốc gia quan tâm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, hạn chế bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ xã hội như đầu tư phát triển hệ thống chăm sóc y tế từ xa, ví dụ chính phủ A-rập Xê-út, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, I-ran... đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển dịch vụ đặt thuốc trực tuyến, kê đơn thuốc điện tử, tạo hồ sơ sức khỏe điện tử, tư vấn và khám, chữa bệnh từ xa... nhằm tăng cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế chất lượng.

Thực trạng trong bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội ở Việt Nam

Về thành tựu

Một là, Việt Nam đã giải quyết tốt vấn đề việc làm và phát triển thị trường lao động. Nhờ đó, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam được duy trì ở mức thấp và tương đối ổn định. Ngay cả khi đại dịch COVID-19 xảy ra, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nhưng vẫn ở mức thấp so với mặt bằng chung trên thế giới. Nhờ các thành tựu phát triển kinh tế, thu hút doanh nghiệp đầu tư nên cầu lao động tăng lên, bảo đảm việc làm với thu nhập ngày càng tăng cho người lao động.

Hai là, bao phủ bảo hiểm xã hội tiếp tục được mở rộng, đồng thời pháp luật về bảo hiểm xã hội được điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện theo hướng nâng cao tính hấp dẫn, linh hoạt và bền vững, gần nhất là việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển đất nước. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được mở rộng hơn.

Ba là, trợ giúp xã hội có bước phát triển cả về chế độ, cơ chế quản lý và năng lực ứng phó. Trợ giúp thường xuyên được mở rộng về quy mô, đối tượng thụ hưởng. Trợ giúp khẩn cấp được đẩy mạnh, quản lý hiệu quả hơn. Đặc biệt, trợ giúp khẩn cấp thể hiện rõ vai trò trong ứng phó với đại dịch COVID-19, ứng phó với thiên tai, bão lũ.

Bốn là, dịch vụ xã hội có sự phát triển đáng ghi nhận, nhìn chung bảo đảm tốt hơn cả về khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ. Giáo dục được quan tâm phát triển về quy mô, từng bước đổi mới theo hướng hội nhập quốc tế, tăng cường sự tự chủ của đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập. Y tế được đầu tư mở rộng cơ sở khám, chữa bệnh, nâng cao chất lượng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị. Chính sách nhà ở xã hội, xóa nhà ở dột nát được Nhà nước và chính quyền địa phương quan tâm, nước sạch được cải thiện. Vấn đề vệ sinh môi trường trở thành vấn đề trọng tâm, được Nhà nước và địa phương quan tâm chỉ đạo. 

Năm là, giảm nghèo và hạn chế bất bình đẳng xã hội là một điểm sáng trong giải quyết an sinh xã hội và vấn đề xã hội ở nước ta. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, bất bình đẳng xã hội được kiểm soát. Một số địa phương không còn hộ nghèo.

Về hạn chế

Một là, thị trường lao động, việc làm bộc lộ nhiều bất cập, thiếu bền vững, chưa trở thành nền tảng vững chắc để giải quyết an sinh xã hội và các vấn đề xã hội khác. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp, nhưng tình trạng thiếu việc làm, việc làm bấp bênh, việc làm thu nhập thấp vẫn khá phổ biến. Tỷ lệ người làm việc trong khu vực phi chính thức còn cao dẫn đến rủi ro thu nhập, nguy cơ ít được bảo vệ bởi hợp đồng lao động và bảo hiểm xã hội.

Hai là, bao phủ bảo hiểm xã hội còn thấp và tốc độ mở rộng bao phủ còn chậm. Mặc dù tỷ lệ bao phủ có tăng, nhưng nếu không có giải pháp đột phá thì khó đạt mục tiêu gia tăng bao phủ bảo hiểm xã hội.

Ba là, trợ giúp xã hội còn bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt với trợ giúp xã hội khẩn cấp khi có cú sốc an sinh đột ngột.

Bốn là, dịch vụ xã hội có nhiều cải thiện, nhưng việc tiếp cận dịch vụ, đặc biệt là chất lượng dịch vụ còn nhiều vấn đề, ngay cả ở khu vực đô thị, trung tâm kinh tế, trung tâm công nghiệp lớn.

Năm là, giảm nghèo thu được nhiều kết quả ấn tượng, nhưng tỷ lệ người nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, tỷ lệ tái nghèo còn lớn.

Về nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, tình hình chính trị, kinh tế của thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường, đặc biệt từ khi xuất hiện đại dịch COVID-19 đến nay làm ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế - xã hội nước ta, từ đó làm sâu sắc hơn một số vấn đề xã hội và đặt ra một số thách thức mới.

Thứ hai, mặc dù đạt được thành tựu kinh tế - xã hội, Việt Nam vẫn đang là một nền kinh tế có mức thu nhập trung bình, trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa cao, sự phát triển chưa bền vững, nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội còn hạn chế.

Thứ ba, an sinh xã hội và vấn đề xã hội có phạm vi rất rộng, liên quan tới nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều đối tượng, nhiều chính sách, pháp luật khác nhau, do nhiều cơ quan, bộ ngành, nhiều cấp tham gia quản lý, tổ chức thực hiện. Do đó, việc tổ chức dễ gây nguy cơ bị dàn trải, phân tán, thiếu phối hợp và khó đánh giá hiệu quả.

Thứ tư, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, sự thay đổi nhận thức, lối sống, làm việc và tiêu dùng đang ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, từ đó ảnh hưởng tới an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội.

Bên cạnh nguyên nhân khách quan, hạn chế về an sinh xã hội và vấn đề xã hội còn do nhiều nguyên nhân chủ quan, thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, chậm thể chế hóa và thể chế hóa chưa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, chính sách bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội.

Thứ hai, tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, làm giảm hiệu quả của chính sách. Nhiều chủ trương, chính sách nhân văn, có mục đích tốt đẹp, nhưng tổ chức thực hiện chưa được như kỳ vọng.

Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội và chính sách xã hội chưa được thiết kế bảo đảm tính hệ thống, liên thông, liên hoàn, đa dạng, đa tầng và thiếu tính linh hoạt để có thể ứng phó và giải quyết vấn đề an sinh xã hội và vấn đề xã hội trong bối cảnh thế giới và trong nước thay đổi nhanh, có nhiều cú sốc bất ổn về an sinh và xã hội. Bộ máy quản lý nhà nước về an sinh xã hội và vấn đề xã hội hiện còn ở nhiều cơ quan, bộ ngành nên việc hoạch định, phối hợp chính sách đồng bộ, nhất quán gặp khó khăn.

Thứ tư, nhận thức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý và công chức, viên chức về bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội còn bất cập, chưa nhận thức được giải quyết vấn đề xã hội không chỉ nhằm hỗ trợ nhóm yếu thế hay vấn đề nhân đạo, mà còn là khơi thông và phát triển nguồn lực con người, là mục tiêu và động lực để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ năm, chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội còn chậm, chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu an sinh xã hội và vấn đề xã hội tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng của chuyển đổi số trong quản lý, điều hành và cung cấp dịch vụ công liên quan đến an sinh xã hội và vấn đề xã hội.

Điều dưỡng chăm sóc trẻ sơ sinh bệnh lý tại Trung tâm sơ sinh (Bệnh viện Phụ sản Trung ương)_Ảnh: TTXVN

Một số vấn đề đặt ra

Thứ nhất, nghiên cứu để tăng tính linh hoạt, khả năng phản ứng và tính thích ứng, sớm tìm ra cách thức ứng phó hiệu quả với các cú sốc an sinh xã hội đột ngột.

Hệ thống an sinh xã hội hiện nay chủ yếu được thiết kế phục vụ nhu cầu an sinh thường xuyên, chưa được thiết kế để phản ứng tốt với cú sốc, thiếu cơ chế huy động, sử dụng và phân phối nguồn lực an sinh xã hội hiệu quả, đặc biệt là trong trợ giúp xã hội khẩn cấp. Hệ thống an sinh xã hội chưa đồng bộ khi cấu thành của hệ thống còn thiếu tính liên kết, tạo thành lưới an sinh xã hội đa tầng, đa dạng, có phạm vi bao phủ lớn.

Một bộ phận lớn người lao động, đặc biệt là lao động ở khu vực phi chính thức, đang ngoài lưới an sinh xã hội, khi không tham gia bảo hiểm xã hội, không được hoặc khó tiếp cận trợ giúp xã hội, không có lương hưu hoặc trợ cấp hưu trí. Như vậy, hệ thống an sinh xã hội mới chỉ bảo đảm được tầng thu nhập cao, làm việc trong khu vực chính thức và tầng thu nhập thấp (người nghèo, cận nghèo, người khuyết tật,...).

Thứ hai, cân nhắc hình thành chủ trương đột phá về tiếp cận nhà ở của người có thu nhập thấp, chú trọng phát triển nhà ở cho thuê với giá thuê thấp cho người thu nhập thấp.

Nhà ở cho người có thu nhập thấp đang là vấn đề nổi lên ở các vùng đô thị và công nghiệp của Việt Nam. Do giá bất động sản tăng nhanh, khả năng tiếp cận nhà ở của người lao động thu nhập thấp ở khu vực đô thị ngày càng khó khăn. Đến nay, phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp chưa thành công như mong muốn. Trong Văn kiện Đại hội XIII và một số văn kiện của Đảng đã đặt vấn đề phát triển nhà ở xã hội. Tuy nhiên, chủ trương tạo bước tiến đột phá về nhà ở cho người thu nhập thấp chưa được nêu rõ, chủ trương phát triển nhà ở cho thuê cho người có thu nhập thấp chưa được đề cập.

 Với cách tiếp cận hiện nay, ngay cả khi xây dựng được hệ thống nhà ở xã hội thì giá nhà ở xã hội vẫn vượt quá khả năng của người thu nhập thấp. Vì thế, cần đặt vấn đề tạo bước tiến đáng kể về tiếp cận nhà ở của người có thu nhập thấp, trong đó chú trọng phát triển nhà ở cho người thu nhập thấp thuê với giá phù hợp. Thực tế, phần lớn người thu nhập thấp ở khu công nghiệp, khu vực đô thị vẫn đang ở nhà thuê.

Thứ ba, nghiên cứu xây dựng Luật Trợ giúp xã hội.

Trợ giúp xã hội là một trong những trụ cột quan trọng để bảo đảm an sinh xã hội. Thời gian qua, việc thực hiện trợ giúp xã hội, đặc biệt là trợ giúp xã hội đột xuất trong đại dịch COVID-19 đã bộc lộ nhiều hạn chế. Nội dung trợ giúp xã hội còn phân tán, thiếu đồng bộ, đặc biệt là trợ giúp đột xuất. Hoạt động trợ giúp cũng thiếu nguồn quỹ, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước theo các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và đóng góp của xã hội. Do quy định pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy về trợ giúp xã hội bị phân tán ở nhiều cơ quan, dẫn đến thiếu nhất quán trong thực tiễn triển khai. Hiện nay, chưa có luật riêng cho trợ giúp xã hội mà nội dung liên quan mới chỉ được quy định trong một số điều của nhiều luật khác, như Luật Người khuyết tật, Luật Người cao tuổi, Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.., trong các nghị định của Chính phủ, dẫn đến khó triển khai hiệu quả.

Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là cần có 1 văn bản luật thống nhất về trợ giúp xã hội để bảo đảm tính pháp lý cao, tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện hoạt động trợ giúp xã hội.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng cơ chế, quy định và phương án bảo đảm an sinh xã hội khẩn cấp khi xảy ra thiên tai, dịch bệnh.

Đại dịch COVID-19, bão Yagi vừa qua cho thấy, nhiều hoạt động ứng phó, hỗ trợ an sinh xã hội được thực hiện, nhưng quá trình triển khai nảy sinh một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, trong đó có việc vận dụng hiệu quả quy định để bảo vệ quyền lợi an sinh xã hội cho người dân.

Thứ năm, nghiên cứu mô hình cho người lao động lựa chọn hình thức đóng và thụ hưởng bảo hiểm xã hội.

Mỗi hình thức đóng và thụ hưởng bảo hiểm xã hội có ưu điểm nhất định. Việc chuyển sang chế độ đóng góp xác định với tài khoản bảo hiểm xã hội cá nhân nhằm giúp người lao động chủ động nắm bắt, kiểm soát việc thụ hưởng bảo hiểm xã hội, đồng thời giảm rủi ro phải hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội từ ngân sách nhà nước, tạo động lực để người lao động làm việc ngay cả khi về già.

Mặt khác, một trong những nguyên nhân một bộ phận người lao động chưa tích cực tham gia bảo hiểm xã hội là do lo ngại rủi ro thay đổi chế độ thụ hưởng bảo hiểm xã hội khi nghỉ hưu, không tính toán được mình đã đóng bảo hiểm xã hội bao nhiêu và sẽ được hưởng bao nhiêu khi về hưu. Hơn nữa, khi công việc không ổn định, chưa rõ khả năng có thể đóng đủ số năm cần thiết để được hưởng bảo hiểm xã hội hay không, người lao động có xu hướng trốn đóng bảo hiểm xã hội hoặc nếu đã đóng thì rút bảo hiểm xã hội một lần. Nếu sử dụng hình thức tài khoản cá nhân, khoản đóng bảo hiểm xã hội của người lao động thì sẽ như một khoản tiết kiệm dài hạn, giúp người lao động chủ động và yên tâm với đóng góp bảo hiểm xã hội. Để hạn chế người lao động rút bảo hiểm xã hội một lần, nếu người lao động rút sớm bảo hiểm xã hội thì chỉ được rút từ tài khoản cá nhân, không được hưởng phần đóng góp của người sử dụng lao động. Ngoài ra, việc này còn tạo sự linh hoạt, đa dạng trong đóng và hưởng bảo hiểm xã hội để người tham gia được lựa chọn theo nhu cầu, mong muốn và khả năng đóng góp.

Thứ sáu, nâng mức hỗ trợ phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và cho phép người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội như bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Hiện nay, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt rất thấp, chủ yếu là người đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đóng thêm một thời gian để đủ điều kiện hưởng lương hưu. Tỷ lệ người làm việc trong khu vực phi chính thức và nông nghiệp rất cao. Nếu không đẩy mạnh thu hút tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì sẽ rất khó mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội và như thế khó bảo đảm an sinh xã hội cho một bộ phận lớn người lao động. Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện nay chưa hiệu quả trong thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Mục tiêu tăng tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ khó đạt được nếu không có đột phá chính sách, nhằm thu hút sự tham gia mạnh mẽ hơn.

Trong khi đó, việc Nhà nước hỗ trợ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội đã được áp dụng và triển khai thành công ở một số quốc gia. Hiện nay, mức hỗ trợ mới được áp dụng từ năm 2018 còn ở mức thấp, chưa đủ sức thu hút người lao động. Căn cứ vào điều kiện ngân sách, Nhà nước quyết định quy mô hỗ trợ, phạm vi đối tượng hỗ trợ. Có thể nghiên cứu thí điểm ở một số địa bàn hoặc một số đối tượng. Việc điều chỉnh này cũng tăng sự hấp dẫn, nên mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện, thay vì giới hạn ở thai sản, hưu trí và tử tuất. Với số tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện không cao, chi trả cho chế độ bảo hiểm xã hội mở rộng sẽ không tạo áp lực lớn đối với Quỹ Bảo hiểm xã hội.

Thứ bảy, hoàn thiện cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng trong bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội.

Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức cộng đồng đóng vai trò rất lớn trong bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội. Tuy nhiên, vai trò của các tổ chức này tuy đã được thể chế hóa, nhưng mức độ bao phủ chưa cao, chưa tạo điều kiện để các tổ chức phát huy tốt hơn vai trò của mình trong huy động nguồn lực xã hội và sử dụng hiệu quả nguồn lực vào bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội. Việc phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng có khả năng huy động nguồn lực xã hội rất lớn cho bảo đảm an sinh xã hội, góp phần bổ sung nguồn lực cho bảo đảm an sinh xã hội, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.

Thứ tám, nhanh chóng xây dựng hệ thống thông tin an sinh xã hội và vấn đề xã hội tích hợp với hệ thống dữ liệu quốc gia về dân cư.

Để thiết kế và vận hành mô hình an sinh xã hội, cần xây dựng hệ thống quản lý thông tin về an sinh xã hội, như thông tin nhân khẩu học, dân số, độ tuổi, quy mô gia đình, học vấn, việc làm, thu nhập, sức khỏe, bảo hiểm xã hội, tình trạng nghèo, đói, khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội và chế độ an sinh xã hội đang và sẽ được thụ hưởng... Thông tin an sinh xã hội còn phân tán trong quản lý, có chỗ thiếu chính xác, thiếu cập nhật và khó tiếp cận với ngay cả cơ quan quản lý, nghiên cứu khoa học, tổ chức tham gia bảo đảm an sinh xã hội, như các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng, doanh nghiệp và người dân. Điều này gây khó khăn trong hoạch định và triển khai chính sách, đánh giá hiệu quả chính sách, chương trình an sinh xã hội, xác định đúng đối tượng trợ giúp, gây ra sự trùng lặp, chồng chéo trong chính sách và hỗ trợ, khó giám sát kết quả... Do đó, cần có một hệ thống thông tin minh bạch, rõ ràng, cập nhật để tạo điều kiện cho quản lý và thực hiện bảo đảm an sinh xã hội./.

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1115703/bao-dam-an-sinh-xa-hoi-va-giai-quyet-van-de-xa-hoi-trong-boi-canh-moi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Giới trẻ săn kẹp tóc, sticker sao vàng cho mùa lễ Quốc khánh
Ngắm xe tăng hiện đại nhất thế giới, UAV cảm tử tại tổng hợp luyện diễu binh
Xu hướng làm bánh in hình cờ đỏ - sao vàng
Thị trường áo phông, cờ Tổ quốc ngập tràn phố Hàng Mã chào đón ngày lễ trọng đại

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm