Quyền làm việc của người lao động trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi sâu, rộng mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, bao gồm cả thị trường lao động. Trong bối cảnh này, quyền làm việc của người lao động không còn thực hiện trong không gian truyền thống, mà phải thích ứng với các yếu tố khoa học, kỹ thuật mới, như tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và các mô hình làm việc linh hoạt.
Một số cơ hội
Nhờ thành tựu phát triển của trí tuệ nhân tạo và tự động hóa, các bước trong quy trình sản xuất được tự động hóa, tạo ra các sản phẩm chất lượng cao với tính năng ưu việt, đáp ứng được tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của thị trường. Điều này làm thay đổi công việc truyền thống, tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp chỉ với ít vốn xã hội, nhưng có lợi thế về vốn kỹ thuật. Khi đó, doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định sản xuất nhanh hơn một cách tự động hoặc bán tự động. Nhân công dần được thay thế bởi rô-bốt và sản xuất được tiến hành trên dây chuyền hiện đại, dưới sự giám sát chặt chẽ, theo quy trình nghiêm ngặt. Internet vạn vật, dữ liệu lớn và công nghệ làm việc từ xa giúp kết nối các thiết bị và hệ thống, tối ưu quy trình làm việc, linh hoạt về thời gian lao động và đặt ra việc thực hiện quyền của người lao động của phía doanh nghiệp và người lao động phù hợp với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư:
- Quyền tiếp cận công nghệ và được đào tạo kỹ năng công nghệ: Người lao động cần được bảo đảm quyền tiếp cận công nghệ mới và nội dung đào tạo để nâng cao kỹ năng lao động.
- Quyền làm việc linh hoạt: Tại một số lĩnh vực, người lao động có thể được làm việc từ xa, linh hoạt địa điểm, thời gian, nhưng vẫn được bảo đảm quyền lợi cơ bản.
- Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình: Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người lao động cần được tôn trọng và bảo vệ.
- Quyền bình đẳng trong tiếp cận việc làm: Người lao động cần được bảo đảm không bị phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, dân tộc, giới tính, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình...
- Quyền được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động: Người lao động được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động.
Việc bảo đảm quyền cho người lao động không chỉ bảo đảm các chính sách cơ bản cho người lao động, mà còn giúp doanh nghiệp phát triển hài hòa, bền vững và ổn định.
Một số thách thức đặt ra
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi cấu trúc thị trường việc làm truyền thống, trong khi đó người lao động chưa chuẩn bị sẵn sàng cho sự thay đổi, điều này tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với người lao động (người lao động đang làm việc và người đang tìm công việc). Doanh nghiệp có thể cắt giảm vị trí việc làm con người thay thế bằng rô-bốt, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa. Người lao động có thể bị đối xử bất bình đẳng trong xã hội giữa lao động có kỹ năng cao và lao động có kỹ năng thấp. Cơ cấu lao động trong các ngành có sự biến động, người lao động không cập nhật kỹ năng, công nghệ sẽ không theo kịp sự dịch chuyển. Yếu tố này đặt ra thách thức cho công tác quản lý nhà nước trên một số khía cạnh như sau:
Một là, suy giảm lao động tại một số ngành. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ sẽ không còn là yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh và thu hút đầu tư từ nước ngoài. Hàng chục triệu người Việt Nam ở độ tuổi lao động nếu chưa qua đào tạo sẽ đứng trước nguy cơ không có cơ hội làm công việc có mức thu nhập cao; nguồn nhân công giá rẻ bị thay thế bởi rô-bốt, trí tuệ nhân tạo… tạo ra khoảng cách số giữa các nhóm lao động, vùng, miền khác nhau.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hơn 2/3 trong số 9,2 triệu lao động ngành dệt may và da giày tại khu vực Đông Nam Á đang bị đe dọa bởi làn sóng tự động khi máy móc dần thay thế con người. Trong đó, ILO dự báo sẽ có 74% lao động ngành chế biến, chế tạo của Việt Nam có mức độ rủi ro cao; 86% lao động ngành dệt may và da giày ở Việt Nam sẽ bị mất việc trong vòng 15 năm tới(1).
Hai là, thị trường lao động bị phân mảng. Những mảng công việc đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo, khả năng sáng tạo và kỹ năng ra quyết định ngày càng nhiều hơn và chiếm ưu thế so với mảng công việc giản đơn. Đa số người lao động sẽ phải thay đổi kỹ năng làm việc đã theo họ trong suốt cuộc đời để có thể chuyển dịch ra khỏi mảng công việc đơn giản. Người có nhiều kỹ năng xã hội, khả năng sáng tạo, kỹ năng ra quyết định trong bối cảnh có nhiều biến động sẽ có cơ hội tốt hơn trong việc chiếm lĩnh vị trí việc làm có thu nhập cao.
Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, xu hướng chuyển đổi nghề nghiệp đang diễn ra theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong các ngành có kỹ năng thấp, gia tăng lao động trong ngành đòi hỏi trình độ chuyên môn cao. Mức độ di động nghề ở khu vực này lớn hơn rất nhiều so với các quốc gia phát triển, nơi có cơ cấu nghề nghiệp tương đối ổn định. Tỷ lệ thay đổi nghề nghiệp trung bình của người lao động ở Pháp là 7,4% trong giai đoạn 1982 - 2009 (7,4% người lao động Pháp đang làm việc trong ngành, nghề khác so với ngành, nghề trong báo cáo nghề nghiệp gần đây nhất của họ). Nghiên cứu về lao động, việc làm ở các quốc gia châu Âu cho thấy, trung bình mỗi năm sẽ có 3% người lao động thay đổi nghề nghiệp của mình.
Tỷ lệ chuyển dịch địa vị nghề cao cho thấy sự thay đổi trong cơ cấu lao động, việc làm, đồng thời cho thấy tính bất ổn định về nghề nghiệp trong bối cảnh phát triển khoa học, công nghệ, thay đổi môi trường và khí hậu. Nghiên cứu tại đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, tỷ lệ thay đổi địa vị nghề diễn ra nhiều nhất ở nhóm những người làm công nhân và lao động có kỹ năng, 33,1% người làm việc trong nhóm nghề này di chuyển sang các nhóm nghề khác, trong đó 23,6% chuyển sang làm nhân viên hoặc nhóm nghề có trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc trung, 6,4% chuyển sang làm lãnh đạo quản lý hoặc chuyên môn kỹ thuật bậc cao và 3,2% xuống làm lao động tự do hoặc nông dân.
Tỷ lệ duy trì địa vị nghề cao nhất thuộc nhóm người làm lãnh đạo, quản lý, chuyên môn kỹ thuật bậc cao và nhóm lao động giản đơn và nông dân; 98,3% người thuộc nhóm nghề lãnh đạo, quản lý, chuyên môn kỹ thuật bậc cao duy trì địa vị nghề của mình, tỷ lệ này ở nhóm lao động giản đơn và nông dân là 94,6%, nghĩa là không có nhiều sự chuyển dịch người lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Điều này cho thấy, tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đang diễn ra tương đối chậm, việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất chưa lớn.
Ba là, thay đổi về cách thức tiến hành công việc. Hiện nay, đa số việc làm được thực hiện trong một chuỗi giao dịch giữa người lao động và người sử dụng lao động. Với tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện nay, việc sử dụng các thiết bị di động và mức độ tiếp cận internet rộng rãi khiến con người ngày càng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với việc làm thông qua nền tảng số. Trong đó, một số công việc được chuyên môn hóa và người sử dụng lao động sẽ đặt hàng nhân sự thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đó mà không theo phương thức lao động truyền thống (chẳng hạn như lĩnh vực giao hàng, gọi xe). Như vậy, một người lao động có thể giao kết nhiều hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết.
Việc người lao động có thể giao kết nhiều hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động tạo cơ hội phổ biến việc làm cho người năng động, nhạy bén, nhiều kỹ năng và quyết đoán. Tuy vậy cũng tạo ra thách thức trong việc thực thi pháp luật lao động của các cơ quan chức năng, sự tôn trọng quyền lợi của người lao động từ phía người sử dụng lao động. Người lao động nếu thiếu kiến thức pháp luật, chưa hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật thì có thể bị doanh nghiệp vi phạm quyền lợi (trừ lương, chậm trả lương…).
Một số giải pháp bảo đảm quyền làm việc của người lao động trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Để chủ động đối phó và tận dụng cơ hội mang lại từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bảo đảm quyền làm việc của người lao động, cần thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, về hoàn thiện thể chế. Việc hoàn thiện thể chế cần bám sát Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW, của Bộ Chính trị, ngày 22-12-2024, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, trong đó có việc ban hành các chính sách hạn chế tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tạo lập hành lang pháp lý cho việc triển khai các mô hình lao động, việc làm mới trên nền tảng công nghệ số và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xử lý kịp thời thách thức đặt ra đối với phát triển xã hội…
Thứ hai, về quản lý nhà nước đối với nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực và bảo đảm quyền làm việc của người lao động là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Là quốc gia đang phát triển, còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định bảo đảm quyền làm việc cho mỗi người dân vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, vừa là vấn đề chiến lược lâu dài của quốc gia. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Đảng về mục tiêu giải quyết việc làm bền vững, chất lượng, phát triển nguồn nhân lực (một trong ba khâu đột phá chiến lược) và hỗ trợ phát triển thị trường lao động: Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn. Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động,… Tạo môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống nhất, hội nhập, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao chất lượng dự báo nhằm nâng cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động và chất lượng dịch vụ việc làm…
Vì vậy, đối với các cơ quan quản lý nhà nước, để chuyển đổi hiệu quả từ lao động phổ thông sang lao động có tay nghề, chứng chỉ phù hợp với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật cao, cần cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở cấp phổ thông trung học và cải thiện chất lượng của các cơ sở đào tạo nghề. Giải pháp này đòi hỏi có sự định hướng nghề nghiệp ngay từ cấp học trung học cơ sở và trung học phổ thông để học sinh có sự lựa chọn phù hợp, tránh tình trạng làm việc không đúng ngành học khi ra trường, tạo ra sự lãng phí về nguồn lực lao động.
Để đào tạo đúng hướng và chuẩn bị tốt cơ sở đào tạo về vật chất, giáo viên và tài chính thì công tác dự báo nhu cầu đào tạo cũng rất cần thiết. Thực tiễn cho thấy để đào tạo một người lao động có trình độ cao hoặc đào tạo nghề đối với một người lao động học nghề cần ít nhất từ 3 - 5 năm, kèm theo đó là công sức và chi phí không nhỏ. Vì vậy, để tránh lãng phí nguồn lực, cần sớm nghiên cứu để tăng cường năng lực dự báo nhu cầu đào tạo và tổ chức kiểm định chất lượng đào tạo nghề. Cần nghiên cứu để dần hình thành các tổ chức có đủ năng lực để dự báo, đánh giá năng lực và sản phẩm đào tạo của trường đại học và cơ sở đào tạo nghề, bảo đảm đạt chuẩn đầu ra về chất lượng gắn với thị trường lao động, thích ứng với nhu cầu phát triển lực lượng lao động trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, làm cơ sở cung cấp thông tin cần thiết, tin cậy cho các cơ sở đào tạo xác định chỉ tiêu tuyển sinh đầu vào theo tín hiệu của thị trường lao động.
Dữ liệu quốc gia về nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong việc theo dõi, quản lý và kiểm soát số lượng, chất lượng và sự biến động của nguồn nhân lực. Từ đó, Nhà nước có định hướng, giải pháp và hành động để điều chỉnh nguồn lực lao động, điều chỉnh cơ cấu ngành, nghề của quốc gia. Điều này giúp kiểm soát và định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Cơ sở dữ liệu nguồn nhân lực quốc gia được xây dựng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thuận lợi lớn khi tận dụng được ứng dụng của dữ liệu lớn (big data). Trong đó, tích hợp thông tin cần thiết của một người đang ở độ tuổi lao động, nắm bắt được nhu cầu, ngành, nghề họ được đào tạo, công việc đã và đang làm... và có thể gửi cho họ thông tin về việc làm từ doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng ngành, nghề tương tự, tạo ra một “siêu thị việc làm” trực tuyến tin cậy. Đó chính là “kết nối người lao động có trình độ với những việc làm phù hợp”, “tạo ra và cung cấp thông tin để bố trí đúng người, đúng việc”, “cung cấp các dịch vụ bổ trợ để tạo thuận lợi để tham gia lao động và dịch chuyển lao động”(2). Hiện nay, Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” đang được triển khai. Vì vậy, cơ sở dữ liệu về lao động phải gắn với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Thứ ba, đối với người lao động. Cần nâng cao hiểu biết, nhận thức của người lao động về thuận lợi và thách thức của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và đào tạo kiến thức, kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới.
Hiện nay, với tư cách là chủ thể của quyền làm việc, người lao động cần có sự chuẩn bị chủ động, tích cực để thích ứng với thay đổi, đòi hỏi của thị trường lao động, môi trường làm việc trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nói cách khác, người lao động tiếp cận chủ động, nhìn nhận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội thay vì thách thức. Trước hết, việc nâng cao hiểu biết, nhận thức của người lao động về thuận lợi và thách thức của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trang bị kỹ năng ứng phó trước tác động của cuộc cách mạng này là việc làm hết sức cần thiết. Hiểu biết, nhận thức trên có thể nói là công cụ thiết thực; mặt khác, đây cũng là trách nhiệm của người lao đông với tư cách là chủ thể quyền, giúp người lao động chủ động tiếp nhận thành tựu, cũng như phòng tránh hoặc giảm thiểu tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Để thích nghi với công nghệ mới và số hóa trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đáp ứng theo yêu cầu của thị trường lao động, nội dung đào tạo người lao động chú trọng đến vấn đề khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM); kỹ năng liên quan đến công nghệ thông tin như lập trình, kỹ năng liên ngành, khai thác dữ liệu lớn, an toàn thông tin, an ninh mạng, kỹ năng, kỹ thuật để xử lý phương tiện kỹ thuật số; kỹ năng sử dụng phương tiện truyền thông một cách hợp lý và hiệu quả; khả năng xử lý thông tin phức tạp và quản lý dữ liệu...; kiến thức về hệ thống, quy trình, phương pháp; kỹ năng mềm giao tiếp hiệu quả, lắng nghe tích cực và tư duy phê phán, khả năng nhận thức có tính sáng tạo và lập luận, giải quyết vấn đề...
Trong bối cảnh bùng nổ thông tin và môi trường xã hội mở trên cơ sở trao đổi, cộng tác, người lao động cần tự trau dồi kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm qua việc tự tìm hiểu, chia sẻ thông tin trên các trang mạng xã hội và các nền tảng công nghệ để từng bước tiến đến làm chủ công nghệ, máy móc mới. Tuy nhiên, cần tiếp nhận một cách thông minh, có chọn lọc, tránh những trường hợp tiếp nhận thông tin, kiến thức, kỹ năng tiêu cực, xấu độc.
Thứ tư, đối với người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động, người lao động và người sử dụng lao động là hai chủ thể chính, có sự liên hệ, gắn kết chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ, quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì vậy, người sử dụng lao động cần chủ động, tích cực thực hiện nhiều giải pháp để bảo đảm quyền làm việc của người lao động. Trong đó bao gồm, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo môi trường làm việc an toàn, lành mạnh, công bằng và tuân thủ pháp luật lao động. Đồng thời, cần chú trọng đào tạo, đào tạo lại, chuyển đổi nghề nghiệp để người lao động thích ứng với sự thay đổi của công nghệ.
Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp người lao động Việt Nam có thể tận dụng được các cơ hội và giảm thiểu các thách thức do bối cảnh đưa đến. Từ đó, bảo đảm quyền làm việc của người lao động, tạo ra thị trường lao động linh hoạt, công bằng và bền vững, xây dựng môi trường làm việc hiện đại, năng động, và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư./.
----------------------------
(1) Nguyễn Tuyền: Sau đại dịch: Ngành nghề nào có nguy cơ bị robot thay thế nhất?, Báo Dân trí, ngày 19-10-2021, https://dantri.com.vn/lao-dong-viec-lam/nganh-nghe-nao-co-nguy-co-bi-robot-thay-the-nhat-20211019122456801.htm
(2) World Bank Group: Tương lai việc làm Việt Nam: Khai thác xu hướng lớn cho sự phát triển thịnh vượng hơn, ngày 31-10-2018, https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/publication/vietnam-future-jobs-leveraging-mega-trends-for-greater-prosperity
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1097102/bao-dam-quyen-lam-viec-cua-nguoi-lao-dong-trong-boi-canh-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-o-viet-nam.aspx
Bình luận (0)