Dù sắp đến giờ nghỉ trưa, tiếng máy móc cùng bước chân làm việc tất bật vẫn âm vang bên trong khu sản xuất của Thành Nhân TNE (phường Đông Hòa, TPHCM).
Các công nhân đang khẩn trương mang thiết bị y tế (TBYT) đã hoàn thiện chất lên xe tải, để kịp mang đến sử dụng tại các bệnh viện, phòng khám đã đặt mua từ trước.
Đèn y tế thành phẩm được chất lên xe để vận chuyển đến các bệnh viện, phòng khám (Ảnh: Hoàng Lê).
Chàng sinh viên 19 tuổi liều lĩnh vay tiền sản xuất đèn y tế
“Đây là đèn gù hồng ngoại, có tác dụng làm ấm, giảm đau và tăng tuần hoàn máu tại chỗ khi bác sĩ khám bệnh, chúng tôi sản xuất hàng chục năm nay rồi. Còn kia là đèn thử thị lực, khoảng cách đọc đến 5 mét, nhiều bệnh viện lớn đã tin dùng”, ông Trần Quang Minh, Chủ tịch công ty, tự hào giới thiệu sản phẩm cho phóng viên Dân trí.
Ông nói, để có được một nhà xưởng rộng hơn 2.000 mét vuông với hàng chục nhân công, đơn vị đã đi một đoạn đường dài hơn 3 thập kỷ. Và với ông, khát vọng làm ra những sản phẩm y tế chất lượng cao vẫn cháy bỏng như thuở nào.
Lần giở những dòng ký ức, ông Minh kể, những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, hầu như không có TBYT nào sản xuất tại Việt Nam, thị trường chủ yếu tiêu thụ các mặt hàng nhập khẩu từ Đông Âu.
Chứng kiến sự thiếu hụt của hệ thống y tế nước nhà, ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe người dân, chàng trai Trần Quang Minh khi ấy - dù mới chỉ là sinh viên năm nhất chuyên ngành Kỹ thuật Điện, Đại học Bách Khoa TPHCM - lóe lên suy nghĩ phải làm sao tự sản xuất được thiết bị y tế, bắt đầu từ đèn khám bệnh.
Ông Trần Quang Minh (áo trắng) kiểm tra kỹ lưỡng từ công đoạn sản xuất ban đầu đến khi đèn y tế hoàn thiện tại nhà xưởng (Ảnh: Hoàng Lê).
Kế hoạch khởi nghiệp nhanh chóng được chàng trai vạch ra. Anh tự tìm hiểu thông tin, kết nối với nhiều chuyên gia để làm chủ vấn đề kỹ thuật, liều lĩnh vay ngân hàng số tiền lớn để đầu tư máy móc, thiết bị. Năm 1994, xưởng sản xuất đèn y tế Thành Nhân TNE ra đời, với vốn ban đầu chưa đến 1 tỷ đồng và vỏn vẹn 5 nhân công.
“Ngày ấy, ngành sản xuất TBYT trong nước còn rất non trẻ, niềm tin với đồ do người Việt tự làm ra chưa cao. Để tồn tại, ban đầu chúng tôi tìm mối gia công đèn y tế, rồi hướng họ đến việc sản xuất theo thiết kế riêng của mình.
Chúng tôi xác định phải làm ra các sản phẩm vừa có kỹ thuật cao lẫn độ thẩm mỹ, chất liệu tốt giống như sản phẩm phương Tây, nhưng giá thành cạnh tranh.
Dần dần, một số sở y tế sử dụng và chứng thực được chất lượng sản phẩm của chúng tôi. Với 5-7 nhân công làm ra vài chục bóng đèn/ngày ban đầu, công ty tuyển thêm gấp nhiều lần và mở rộng mạnh khu vực sản xuất”, ông Minh nói.
Khi nhu cầu thị trường tăng cao và đã có chỗ đứng, đơn vị mạnh dạn đầu thêm các dây chuyền sản xuất tiền tỷ, nghiên cứu làm ra hàng loạt sản phẩm mới.
Đèn y tế của Thành Nhân TNE đã được xuất khẩu sang một số nước Đông Nam Á (Ảnh: Hoàng Lê).
Những năm gần đây, ngoài thị trường trong nước, đèn y tế “made in Việt Nam” thông qua đường nội địa thuỷ và đường bộ đã hiện diện tại Lào, Campuchia, Myanmar, thậm chí phục vụ 80-90% nhu cầu của nước bạn.
“Từ chỗ bắt đầu từ con số 0, chúng tôi là đơn vị tiên phong sản xuất đèn thiết bị y tế tại Việt Nam. Nhưng nếu so với các nước phát triển, doanh nghiệp Việt vẫn còn khoảng cách rất xa.
Chúng ta muốn phát triển với khí thế mãnh liệt, muốn đuổi kịp và có chỗ đứng quốc tế, cần phải được đầu tư bài bản. Tôi nghĩ Việt Nam nên thành lập thêm một hội chuyên về sản xuất TBYT, để các doanh nghiệp ngồi lại với nhau bàn bạc vấn đề tự chủ dây chuyền làm ra sản phẩm.
Thứ hai, Nhà nước cần xem lĩnh vực sản xuất TBYT là ngành mũi nhọn để có thêm những chính sách ưu đãi về thuế, địa điểm sản xuất, lãi vay vốn… hỗ trợ thêm cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần đầu tư phát triển sản xuất mạnh các TBYT gia đình, cá nhân hóa. Sau dịch Covid-19, chúng ta đã thấy rõ tầm quan trọng của những sản phẩm như máy đo huyết áp, máy hỗ trợ hô hấp…”, ông Trần Quang Minh nói.
100 triệu ống lấy máu và chiếc kim luồn an toàn “made in Việt Nam” đầu tiên
“Mỗi năm, Việt Nam tiêu thụ hàng tỷ ống lấy máu phổ thông, nhưng chúng ta chưa kiểm soát chặt chẽ độ đồng đều và chất lượng phun hóa chất, độ sạch", bà Lê Ngọc Thùy Anh, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Nhà máy Wembley Medical (Khu Công nghệ cao TPHCM) nói.
Theo bà, xét nghiệm là bước đầu tiên và quan trọng để chẩn đoán bệnh, đưa ra hướng điều trị tối ưu về thời gian, chi phí cho người bệnh. Chẩn đoán từ xét nghiệm ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của thầy thuốc…Do vậy, phải cần có ống lấy máu chất lượng cao.
Bên trong dây chuyền sản xuất thiết bị y tế chuẩn châu Âu của Wembley Medical (Ảnh: NVCC).
Năm 2020, doanh nghiệp bắt đầu sản xuất ống lấy máu trên dây chuyền công nghệ mới. Trong vòng 2 năm, 100 triệu sản phẩm ống lấy máu phổ thông được đưa ra thị trường.
Tuy nhiên, khi thị trường ổn định, đơn vị này chuyển hướng sang nghiên cứu ống lấy máu chân không - loại thiết bị vốn đã được các nước phát triển áp dụng từ những năm 1980 trong xét nghiệm lâm sàng.
“Từ những năm 1980, các quốc gia phát triển đã chuyển sang sử dụng ống chân không trong quy trình xét nghiệm lâm sàng. Đây là một cải tiến y học mang tính cách mạng, với nhiều ưu điểm, như giúp giảm nguy cơ vỡ hồng cầu và loại bỏ nguy cơ đông máu vi thể, giảm đau, tạo cảm giác thoải mái, tiết kiệm thời gian và công sức…
Nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ dùng ống này trong điều trị chưa đến 10%. Dù giá thành cao hơn sản phẩm truyền thống và các cơ sở y tế chưa có thói quen sử dụng, chúng tôi chấp nhận mạo hiểm sản xuất ống nghiệm lấy máu chân không tiêu chuẩn châu Âu.
Công ty tin tưởng khi phổ cập sử dụng sản phẩm này sẽ cắt giảm chi phí xét nghiệm cuối cùng, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa xét nghiệm và góp phần thống nhất kết quả xét nghiệm liên thông toàn quốc”, bà Lê Ngọc Thùy Anh chia sẻ.
Các sản phẩm kim luồn tĩnh mạch an toàn và ống lấy máu sản xuất tại Khu Công nghệ cao TPHCM (Ảnh: NVCC).
Đến năm 2024, công ty tiếp tục lắp dây chuyền sản xuất kim luồn an toàn đạt chuẩn quốc tế, hướng tới mục tiêu giảm chi phí cho người bệnh và tăng cường an toàn cho nhân viên y tế trong quá trình sử dụng. Đơn vị cũng đang tiếp tục nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và dự kiến đưa ra thêm một số sản phẩm y tế mới vào danh mục.
Bà Lê Ngọc Thùy Anh cho rằng tiềm năng phát triển thiết bị y tế trong nước là có thật, nhưng đi kèm không ít thách thức. Nhiều doanh nghiệp vốn còn hạn chế, trong khi tốc độ đổi mới công nghệ nhanh khiến vòng đời sản phẩm ngắn.
Việc áp dụng phương thức đấu thầu theo “giá rẻ” không khuyến khích đầu tư chiều sâu, ứng dụng công nghệ cao. Ngoài ra, quan hệ giữa doanh nghiệp sản xuất TBYT và chủ mời thầu cũng cần bình đẳng hơn trong vấn đề hợp đồng, giao nhận hàng và thanh toán.
Bài học “kiềng 3 chân” để vươn ra thế giới
Trao đổi với phóng viên Dân trí, ông Trương Hùng, Phó Chủ tịch Liên chi hội TBYT TPHCM chia sẻ, Việt Nam sắp bước vào giai đoạn già hóa dân số, đòi hỏi đặt ra nhu cầu chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và sự phát triển y tế tại các viện dưỡng lão.
Ông Trương Hùng, Phó Chủ tịch Liên chi hội Thiết bị y tế TPHCM (Ảnh: NVCC).
Việt Nam hiện có hơn 2.000 bệnh viện phục vụ cho 100 triệu người dân, trong đó 90% là bệnh viện công lập. Hàng năm, nước ta nhập hơn 2 tỷ USD các vật tư, TBYT từ nước ngoài. Thị trường chăm sóc sức khỏe tăng trưởng 10-15% mỗi năm.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thống kê, hiện nay thị trường có hơn 20.000 mặt hàng TBYT. Với số lượng mặt hàng rất lớn và đa dạng nêu trên, cơ hội luôn luôn rộng mở với các doanh nghiệp sản xuất TBYT.
Phó Chủ tịch Liên chi hội TBYT TPHCM nhận định, để ngành TBYT Việt vươn ra thế giới, có thể ứng dụng bài học phát triển theo mô hình “kiềng ba chân” (Chính phủ - Trường học – Công ty) của một số quốc gia châu Á.
Cụ thể, Chính phủ rót vốn cho trường đại học nghiên cứu những đề tài từ các công ty TBYT đề xuất. Những công trình nghiên cứu này sau khi hoàn thành sẽ được đưa thẳng về các khu kỹ nghệ cao quốc nội sản xuất. Đôi lúc các công ty trùng lắp nhau về sản phẩm, nhưng điều này làm tăng tính cạnh tranh, đẩy chất lượng TBYT lên cao hơn.
Cũng theo ông Trương Hùng, vài năm qua, đã có doanh nghiệp Việt đầu tư sản xuất tinh thể mắt, stent thông tim, bóng nong mạch máu... với dây chuyền sản xuất chuẩn quốc tế, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, vì nhiều lý do.
Ngoài việc chính sách chưa hỗ trợ triệt để với hàng trong nước, còn có tâm lý e ngại hàng Việt từ chính đội ngũ y bác sĩ điều trị…
Tháng 6 vừa qua, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pakistan tại Việt Nam đã đến trực tiếp tham quan nhà máy sản xuất ống lấy máu chân không, kim luồn tĩnh mạch an toàn ở Khu Công nghệ cao TPHCM.
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pakistan tại Việt Nam (áo vest xanh) đến tham quan nhà máy sản xuất thiết bị y tế tại Khu Công nghệ cao TPHCM (Ảnh: NVCC).
Phía Pakistan mong muốn được nhập khẩu các sản phẩm chăm sóc sức khỏe của nhà máy trong tương lai, cho thấy tiềm năng hướng ra thế giới của ngành TBYT Việt.
“Theo thời gian, các cơ chế đấu thầu TBYT "tự trói mình" trước đây đang dần được cởi ra, giúp nhiều máy móc chất lượng cao vào được bệnh viện thuận lợi hơn.
Về phía các doanh nghiệp, Liên chi hội mong muốn anh em khi đã làm chủ việc sản xuất TBYT công nghệ cao, hãy mạnh dạn quảng bá sản phẩm của mình.
Hiện nay, Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư TPHCM (ITPC) đã có chương trình hỗ trợ đưa doanh nghiệp tham dự những triển lãm quốc tế. Đây là điều kiện thuận lợi giúp ngành TBYT Việt Nam nhìn ra thế giới", ông Trương Hùng bày tỏ sự hy vọng.
Nguồn: https://dantri.com.vn/suc-khoe/chiec-den-gu-ong-lay-mau-va-bai-hoc-de-thiet-bi-y-te-viet-vuon-ra-the-gioi-20250821145701272.htm
Bình luận (0)