Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới

TCCS - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức là nhiệm vụ quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất, năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bước vào kỷ nguyên mới, cần đề ra các giải pháp chuyển đổi mạnh mẽ phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản03/05/2025

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến dự Lễ kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 19-7-2024 _Ảnh: TTXVN

Yêu cầu đặt ra đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán b trong kỷ nguyên mới

Xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác đào tạo, phát triển các thế hệ cán bộ có đức, có tài, tận tụy phục vụ nhân dân, Tổ quốc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”(1); “muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Việc đào tạo, bồi dưỡng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, đáp ứng nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”(3). Như vậy, để thực hiện mục tiêu này, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là quan trọng, cần thiết. 

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn được xác định là công việc “then chốt” của công tác xây dựng Đảng. Bước vào kỷ nguyên vươn mình, cần tạo sự chuyển động mạnh mẽ, thể hiện khát vọng, trí tuệ và hào khí dân tộc. Để dân tộc Việt Nam vươn mình, cần có nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 

Trong bối cảnh mới, việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược gồm những yêu cầu sau: 

Một là, cần tập trung xây dựng đội ngũ đầy đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng, trách nhiệm và nhiệt huyết với sự nghiệp cách mạng để vận hành hệ thống chính trị tinh gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược, cần có phương pháp luận, tầm nhìn chiến lược, năng lực tư duy đổi mới và hành động quyết liệt, quản trị sự chuyển đổi xã hội phù hợp với xu thế phát triển khách quan, biết phát huy tiềm năng, tận dụng cơ hội để đưa dân tộc Việt Nam đi lên, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. 

Hai là, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, cần được trang bị hệ thống kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp thành thạo, trải nghiệm thực tiễn công tác. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng mang tính hệ thống và cơ bản, cần xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên biệt hóa cho từng loại đối tượng cán bộ theo yêu cầu chuyên môn, phạm vi hoạt động ngành nghề, lĩnh vực và cấp độ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.

Ba là, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược cần nắm vững kiến thức và kỹ năng vận dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại, có khả năng thích ứng và làm việc hiệu quả theo phương thức sản xuất số nhằm phục vụ hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và hội nhập với môi trường quốc tế. Ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư giúp giải phóng sức lao động, tăng năng suất, thúc đẩy sức sáng tạo của con người, tạo ra sự thay đổi tư duy trong mọi lĩnh vực, thay đổi tiếp cận chính sách quản trị, chiến lược phát triển của từng nước. Trước những thay đổi đó, yêu cầu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đòi hỏi cần cập nhật, bổ sung kiến thức về khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, cũng như năng lực thích ứng với bối cảnh mới để làm việc, lãnh đạo, quản lý phát triển xã hội trong quá trình chuyển đổi số.

Bốn là, đổi mới tư duy, cách thức tổ chức thực hiện; đồng thời triển khai những biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ năng lực, phẩm chất, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, góp phần đưa đất nước vươn mình, sánh vai với các cường quốc trên thế giới. 

Định hướng đổi mới căn bản công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược trong kỷ nguyên mới 

Thời gian tới, việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, trong kỷ nguyên mới cần tập trung vào một số nội dung sau: 

Thứ nhất, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao khả năng tư duy sáng tạo, chuyển hóa thành hành động đột phá.

Cần bắt đầu từ tư duy mới và hành động mới trong lãnh đạo, chỉ đạo tới đổi mới sáng tạo, linh hoạt, năng động trong triển khai nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Đội ngũ cán bộ thế hệ mới của kỷ nguyên vươn mình, trước hết là lãnh đạo, quản lý các cấp, cần có “tư duy mới”, “hành động mới” để thực hiện cuộc “cách mạng” về hoàn thiện thể chế, quản trị quốc gia, tổ chức bộ máy, đồng thời tạo đột phá phát triển kết cấu hạ tầng, thực hiện phương thức sản xuất số... 

Tiếp đó cần đổi mới tư duy và cách hành động thực tế để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Kiên quyết khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, bảo thủ, giáo điều, tình trạng “lợi ích nhóm” trong hoạch định chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo; khuyến khích các giải pháp và hành động quyết liệt, kịp thời, thực tế. Đại hội XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, với mục tiêu chiến lược 100 năm là đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045; nền kinh tế Việt Nam phải đạt mức tăng trưởng kinh tế hai con số trong khoảng thời gian dài để bắt kịp các nền kinh tế phát triển trong khu vực. Để đạt được mục tiêu đó, giải pháp đề ra là cần cải thiện mạnh mẽ năng suất lao động xã hội, áp dụng hiệu quả thành tựu khoa học - công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tích cực phát triển đổi mới sáng tạo; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ, kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế; nâng cao năng lực quản trị quốc gia và cải thiện chất lượng chính sách; cách mạng về thể chế, tổ chức và bộ máy. Do đó, đột phá về tư duy trong cải cách tổ chức bộ máy, thực hiện giải pháp cách mạng để tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy từ Trung ương tới cơ sở là những định hướng quan trọng, mang tính cách mạng để có thể bứt phá, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, góp phần đưa Việt Nam vươn mình trở thành quốc gia phát triển vào giữa thế kỷ XXI.

Nghiên cứu viên thuộc Viện Khoa học vật liệu ứng dụng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam say mê nghiên cứu khoa học_Ảnh: TTXVN 

Thứ hai, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực “kỹ trị”.

Coi trọng đào tạo và lựa chọn người có năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý, thu hút nhân tài theo từng lĩnh vực, thế mạnh riêng vào làm việc trong hệ thống chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng gắn với nhu cầu thực tế, trong đó có đội ngũ cán bộ, tầng lớp tinh hoa có tri thức, toàn diện theo lĩnh vực chuyên môn, tôn trọng tri thức và vận dụng hiệu quả vào lãnh đạo, chỉ đạo, quản trị chiến lược, thực hành lĩnh vực công tác... “Tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Có cơ chế, chính sách hấp dẫn về tín dụng, học bổng và học phí để thu hút học sinh, sinh viên giỏi theo học các lĩnh vực toán học, vật lý, sinh học, hóa học, kỹ thuật và công nghệ then chốt, nhất là ở các trình độ sau đại học. Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo tài năng trên các lĩnh vực. Ban hành cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống(4). Trong đó cần đề cao, tôn trọng đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, đồng thời có cơ chế đãi ngộ đặc thù và tạo môi trường làm việc thuận lợi nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành. Xây dựng, kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế.

Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng năng lực thích ứng và khả năng làm việc trong môi trường số.

Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có đủ kiến thức, tầm nhìn để lãnh đạo, chỉ đạo chuyển đổi số, ban hành các quyết định, chiến lược thực hiện chuyển đổi số, tạo động lực chuyển đổi số, hình thành phương thức sản xuất số... Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần phải bao hàm nội dung về chuyển đổi số, phương thức sản xuất số. Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ. Nghị quyết đã xác định vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tầm nhìn chiến lược của Đảng ta tập trung vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và số hóa. Đồng thời, xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là yếu tố cần thiết để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo trong xã hội. Nghị quyết đề ra yêu cầu, cần “tập trung đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với các quốc gia có trình độ khoa học và công nghệ, chuyển đổi số phát triển, nhất là các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, công nghệ lượng tử, bán dẫn, năng lượng nguyên tử và các công nghệ chiến lược khác”(5). Hơn hết, Nghị quyết thể hiện sự nắm bắt kịp thời các xu thế toàn cầu, như toàn cầu hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng và tăng cường cạnh tranh công nghệ giữa các nước, thể hiện tính dự báo và thích ứng với xu thế toàn cầu, hội nhập quốc tế.

Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Môi trường quốc tế mang tính đa phương diện, trong đó thể hiện các mối quan hệ, tương tác đan xen nhiều chiều giữa các cá nhân, tổ chức của các quốc gia, lãnh thổ theo hình thức song phương, đa phương. Nội dung quan hệ, tương tác bao trùm tất cả các lĩnh vực đời sống quốc gia và toàn cầu như pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, môi trường... Môi trường quốc tế thể hiện quan hệ lợi ích đan xen, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, đan xen lợi ích chung - riêng. Để thích ứng và đủ khả năng làm việc trong môi trường đó, đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược cần phải được đào tạo bài bản theo trường lớp, rèn luyện thực tiễn thường xuyên. Bên cạnh yêu cầu về tiêu chuẩn, bản lĩnh chính trị của cán bộ, phải xác định rõ những yêu cầu quan trọng về khả năng làm việc trong môi trường quốc tế để trang bị cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược trong kỷ nguyên vươn mình. Theo đó, các yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược trong môi trường quốc tế được thể hiện như sau: Cần trang bị nền tảng tri thức sâu rộng, thành thạo về nghề nghiệp, vững vàng về chuyên môn, có năng lực cập nhật kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp theo xu hướng trên thế giới. Bên cạnh đó, cần am hiểu pháp luật, quy định, thông lệ quốc tế, nắm vững và vận dụng thành thạo hệ thống tri thức và kỹ năng pháp luật quốc tế, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong hoạt động quốc tế sâu rộng hiện nay. Song song đó, cần hiểu rõ và tôn trọng bản sắc văn hóa của các dân tộc, các quốc gia, khu vực trên thế giới; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. 

Thứ năm, quản lý chất lượng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Cần chú trọng công tác quản lý chất lượng đào tạo, quy trình đào tạo cũng như quản lý đánh giá chất lượng dạy và học. Đặc biệt, trong trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra sâu rộng, cần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số một cách mạnh mẽ, đồng bộ, hệ thống trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng. Đảng ta xác định mục tiêu “phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số; đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số”(6). Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm thúc đẩy thực hiện chuyển đổi số. Theo đó, cần chú trọng “tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(7). Đổi mới căn bản phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo phương châm “lấy học viên làm trung tâm, giảng viên làm động lực và nhà trường làm nền tảng”. Cần chuyển đổi mạnh mẽ phương pháp đào tạo, bồi dưỡng: Chuyển người học từ tiếp thu thụ động, một chiều sang chủ động tìm tòi, tích lũy kiến thức, phát huy sự tự học, tự nghiên cứu; người dạy chủ yếu là cung cấp phương pháp luận, định hướng, hướng dẫn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm và thảo luận để tìm ra biện pháp giải quyết tối ưu một vấn đề thực tiễn đặt ra. 

Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đáp ứng yêu cầu thực tiễn (Trong ảnh: Đoàn cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Nhật Bản)_Nguồn: hcma.vn

Tăng cường đào tạo tập trung, giảm đào tạo không tập trung để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn. Đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng như dài hạn, trung hạn, ngắn hạn phù hợp với đối tượng, nội dung, chương trình. Chuyển đổi mạnh mẽ quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ chủ yếu học trên lớp sang các hình thức khác nhau dựa trên nền tảng số, như học trực tuyến, học qua mạng internet, phương tiện truyền thông đại chúng. Sắp xếp các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy mô, hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, bảo đảm các điều kiện dạy học có chất lượng và đáp ứng được việc áp dụng, sử dụng phương pháp dạy học tích cực. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên theo tiêu chí phải có chuyên môn, kỹ năng phù hợp, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần kết hợp sử dụng hài hòa đội ngũ giảng viên cơ hữu và đội ngũ giảng viên thỉnh giảng. Quan tâm thỏa đáng chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên và cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng (cả đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và nước ngoài) phù hợp với tình hình mới. 

Thứ sáu, đa dạng hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp.

Chú trọng thu hút nguồn lực từ các tổ chức quốc tế thông qua các chương trình hợp tác đào tạo, trao đổi chuyên gia giữa hai bên nhằm tạo cơ hội cho cán bộ có điều kiện được nghiên cứu, học tập và làm quen với môi trường làm việc quốc tế; nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu thực tiễn đa dạng và phong phú, nâng cao khả năng xử lý, ứng phó với các tình huống và vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Hơn nữa, cần đa dạng hơn nữa các “kênh”(8) trao đổi, hợp tác đào tạo giữa Việt Nam và các quốc gia, tổ chức quốc tế. Mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trên thế giới thông qua các chương trình cấp học bổng, tài trợ dự án phát triển, nghiên cứu, trao đổi học thuật, hội nghị, hội thảo; hợp tác đào tạo dài hạn và ngắn hạn, kết hợp với trao đổi bồi dưỡng, thực tập ngắn hạn. Phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao kinh tế với các nhánh ngoại giao chuyên biệt khác, như ngoại giao văn hóa, ngoại giao công nghệ, ngoại giao giáo dục và đào tạo, góp phần nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ Việt Nam trong môi trường quốc tế./.

---------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 309
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tr. 280
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 187
(4), (5) Xem: Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, về "Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia"
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 225
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 136
(8) Việt Nam đang triển khai nhiều chương trình bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Kết luận 39); các hiệp định hợp tác với Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Lào, Campuchia,…

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1081102/doi-moi-cong-tac-dao-tao%2C-boi-duong-can-bo-cac-cap-dap-ung-yeu-cau-cua-ky-nguyen-moi.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Những quán bún phở Hà Nội
Ngắm non xanh nước biếc Cao Bằng
Cận cảnh con đường đi bộ xuyên biển 'thoắt ẩn thoắt hiện' tại Bình Định
Tp. Hồ Chí Minh đang vươn mình thành một "siêu đô thị" hiện đại

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm