Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Hành trình phát triển khoa học, công nghệ của Hàn Quốc: Mô hình thành công về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

TCCS - Trong công cuộc đổi mới, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu vượt bậc về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, là một trong những nền kinh tế số tiên tiến nhất trên thế giới. Nghiên cứu mô hình thành công của Hàn Quốc về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số có ý nghĩa quan trọng, gợi mở những bước đi cần thiết để hiện thực hóa con đường phát triển đất nước.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản18/08/2025

1- Đến nay, Hàn Quốc đã đạt được thành tựu vượt bậc về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, là một trong những nền kinh tế số hàng đầu trên thế giới. Quá trình phát triển kinh tế và công nghệ của Hàn Quốc đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng, quy mô ấn tượng, với kết quả phát triển vượt bậc. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu sau chiến tranh, Hàn Quốc vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, dẫn đầu các ngành công nghiệp, như điện tử, ô-tô, đóng tàu, công nghệ thông tin và truyền thông(1).

Thực tiễn cho thấy, chính sách về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực quan trọng nhất để Hàn Quốc đạt được các bước tiến vượt bậc, trở thành quốc gia có trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến trong một khoảng thời gian chỉ gần 40 năm, thể hiện ở từng giai đoạn cụ thể, bao gồm:

Thứ nhất, giai đoạn khôi phục sau chiến tranh và khởi động công nghiệp hóa (1960 - 1970).

Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, Hàn Quốc tập trung vào việc nhập khẩu và điều chỉnh công nghệ nước ngoài như một chiến lược chủ yếu để xây dựng nền tảng công nghiệp(2). Bước ngoặt quan trọng là việc thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KIST) vào năm 1966 và Bộ Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (MOST) vào năm 1967. Bộ Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc đóng vai trò quyết định trong việc nâng tầm Hàn Quốc từ một quốc gia đang phát triển lên ngưỡng của một quốc gia tiên tiến vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX(3). Việc ban hành các luật nền tảng, như Luật Xúc tiến Công nghệ và Luật Giáo dục Khoa học được ban hành vào năm 1967, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho chính sách phát triển khoa học, công nghệ Hàn Quốc. Để tài trợ cho các khoản đầu tư công nghiệp, Hàn Quốc đã dựa vào khoản vay dài hạn từ nước ngoài và thành lập viện nghiên cứu của chính phủ (GRIs) để hỗ trợ các ngành công nghiệp trong việc tiếp thu công nghệ mới. Trong giai đoạn này, do quan ngại về sự phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia, cùng với đó là chính sách hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cấp phép nước ngoài, việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, bao gồm kỹ thuật đảo ngược và sản xuất theo hợp đồng chế tạo, sản xuất ủy thác với yêu cầu, thiết kế từ nhà đặt hàng (hợp đồng OEM) chủ yếu dựa trên thỏa thuận mang tính cá nhân(4).

Thứ hai, giai đoạn thúc đẩy công nghiệp nặng, nghiên cứu và phát triển (R&D) nội địa, phát triển công nghệ cao (1980 - 1990).

Giai đoạn này chứng kiến sự chuyển đổi mạnh mẽ sang phát triển năng lực R&D tại chỗ và giảm sự phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu. Chương trình phát triển công nghệ tổng quát công nghiệp được khởi động vào năm 1987 đã cung cấp, hỗ trợ tài chính và công nghệ cho doanh nghiệp khu vực tư nhân để phát triển công nghệ có độ rủi ro cao. Chi tiêu cho R&D của Hàn Quốc tăng đáng kể, từ 0,77% GDP năm 1980 lên 2,33% năm 1994. “Thúc đẩy công nghệ” trở thành nguyên tắc chủ đạo trong chính sách khoa học và công nghệ. Khu vực tư nhân, đặc biệt là các tập đoàn lớn, như Samsung, Deawoo, Lotte... ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển công nghệ. Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược “thúc đẩy công nghệ” thông qua chính sách hướng từ trên xuống trong những năm 80 của thế kỷ XX, nhưng đến những năm 90 của thế kỷ XX vai trò của khu vực tư nhân đã lớn hơn và các chính phủ sau đó đã tìm kiếm một chiến lược phát triển do khu vực tư nhân dẫn dắt(5).

Thứ ba, giai đoạn chuyển đổi sang hệ thống đổi mới sáng tạo và cạnh tranh toàn cầu (những năm đầu tính từ năm 2000).

Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998, chính phủ Hàn Quốc đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi hệ thống đổi mới sáng tạo, từ “bắt kịp” sang hệ thống “sáng tạo”. Chi tiêu cho R&D tiếp tục tăng lên, đạt mức 3,2% GDP vào năm 2006, một trong những mức cao nhất trên thế giới. Chính phủ Hàn Quốc tập trung vào việc thúc đẩy ngành công nghiệp công nghệ thông tin. Các đánh giá của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) chỉ ra sự cần thiết tăng cường khoa học cơ bản và cải thiện liên kết trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Hội đồng Khoa học và Công nghệ Quốc gia do Tổng thống Hàn Quốc đứng đầu được thành lập vào năm 1999. Dự án phát triển công nghệ hàng đầu (Dự án G7) được triển khai với mục tiêu đưa khoa học, công nghệ của Hàn Quốc lên ngang tầm các quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào năm 2001.

Thứ tư, giai đoạn giải quyết thách thức mới và kỷ nguyên số (2010 – đến nay).

Giai đoạn gần đây, Hàn Quốc tập trung vào việc giải quyết hiệu suất đổi mới sáng tạo chưa thực sự đúng vai trò trung tâm của doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực dịch vụ còn tụt hậu. Chuyển đổi số trở thành một ưu tiên hàng đầu, với việc chính phủ Hàn Quốc triển khai “Thỏa thuận mới” vào năm 2020, trong đó chính sách số là một trụ cột. Hàn Quốc đã trở thành quốc gia dẫn đầu về kết nối băng thông rộng và triển khai 5G. Các nỗ lực tiếp tục được thực hiện nhằm định hình lại chính sách đổi mới và công nghiệp trong kỷ nguyên số, nhấn mạnh một cách tiếp cận theo định hướng thị trường và nhu cầu hơn.

Bằng các chính sách đột phá mang tính chiến lược, Hàn Quốc đã tạo ra hệ sinh thái quốc gia về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số mạnh mẽ, thông qua các trụ cột quan trọng sau:

Một là, vai trò chiến lược của chính phủ trong thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Chính phủ Hàn Quốc đóng một vai trò chủ động và can thiệp mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghệ. Các kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm, với khoa học - công nghệ là trọng tâm, đã được triển khai một cách nhất quán. Các cơ quan của chính phủ Hàn Quốc, như MOST (nay là MSIT) được thành lập và phát triển để xây dựng và thực hiện chính sách khoa học - công nghệ. Chính phủ Hàn Quốc đã tài trợ cho R&D, ban đầu là trực tiếp và sau đó thông qua việc khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân. Sáng kiến “Chính phủ nền tảng số” là một chiến lược hiện đại nhằm đổi mới hoạt động của chính phủ thông qua tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây và dữ liệu.

Dây chuyền sản xuất chip tại nhà máy của SK hynix, Hàn Quốc_Nguồn: SK hynix

Hai là, ảnh hưởng của các tập đoàn lớn đến R&D và tiến bộ khoa học - công nghệ.

Sự trỗi dậy và chiếm lĩnh về khoa học, công nghệ của các tập đoàn lớn là một đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Hàn Quốc. Các tập đoàn này đã có đóng góp mạnh mẽ  vào đầu tư R&D và thúc đẩy tiến bộ khoa học - công nghệ trong các ngành công nghiệp chủ chốt. Sự dịch chuyển dòng vốn nội bộ trong các Chaebol (tập đoàn có nguồn vốn lớn, tác động lớn đến kinh tế, chính trị, xã hội Hàn Quốc) cũng có tác động quan trọng đến việc tài trợ cho R&D. Tuy nhiên, sự lớn mạnh và ảnh hưởng chi phối của các Chaebol cũng vấp phải chỉ trích, bao gồm việc kìm hãm cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và tác động tiêu cực tiềm ẩn đến đổi mới sáng tạo.

Ba là, mô hình liên kết viện, trường và cơ sở nghiên cứu, đào tạo.

Các trường đại học ở Hàn Quốc đã phát triển từ những tác nhân chưa thực sự đúng vai trò trung tâm trở thành chủ thể đóng góp ngày càng quan trọng cho hệ thống đổi mới sáng tạo. Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KAIST) là một ví dụ điển hình về một trường đại học kỹ thuật hàng đầu. Các viện nghiên cứu của chính phủ Hàn Quốc (GRIs) được thành lập để hỗ trợ phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ. Hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp ngày càng được chú trọng, nhiều sáng kiến được triển khai để thúc đẩy các liên kết. 

Bốn là, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Hàn Quốc, đặc biệt là ở thủ đô Xơ-un, đã và đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua nhiều chính sách công nghệ và tài chính khác nhau. Tuy nhiên, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn phải đối mặt với thách thức về đổi mới sáng tạo và năng suất so với doanh nghiệp lớn. Các sáng kiến như “Kế hoạch khởi nghiệp toàn diện Hàn Quốc” được triển khai đã trở thành động lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp mạnh mẽ.

Năm là, quá trình xây dựng quốc gia số được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, thống nhất.

Hàn Quốc đã sớm tập trung vào chính phủ điện tử từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cơ quan Điện toán Quốc gia (NCA) và Ủy ban Đặc biệt của Tổng thống Hàn Quốc về Chính phủ Điện tử (SCeG) đã được thành lập. Sáng kiến “Chính phủ nền tảng số” mới nhằm mục đích tiếp tục đổi mới hoạt động của chính phủ thông qua ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây và tích hợp dữ liệu, mục tiêu là tạo ra một chính phủ lấy người dân làm trung tâm, khoa học, minh bạch và thúc đẩy tăng trưởng khu vực tư nhân. Trọng tâm là phá vỡ rào cản, sự “cát cứ” thông tin giữa các đơn vị và cơ quan nhà nước cũng như thúc đẩy, tăng cường chia sẻ dữ liệu để tạo nên một hệ thống và hệ sinh thái quốc gia số thống nhất. Các lĩnh vực chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số của Hàn Quốc bao gồm công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), AI, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, an ninh mạng, metaverse (vũ trụ ảo) và nội dung số. Hàn Quốc giữ vị trí dẫn đầu trong các lĩnh vực, như hạ tầng 5G và việc áp dụng công nghệ số mới. Chính phủ đã đầu tư và có kế hoạch để tiếp tục củng cố các lĩnh vực này. Chuyển đổi số đã có tác động tích cực đến nền kinh tế Hàn Quốc, bao gồm cải thiện năng suất và tạo ra cơ hội kinh doanh mới. 

2- Hợp tác khoa học, công nghệ đã trở thành trụ cột quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Kết quả trong hợp tác khoa học, công nghệ giữa hai nước đã đóng góp một phần quan trọng vào chặng đường hơn 30 năm quan hệ ngoại giao (1992-2025) và việc nâng cấp lên mức “Đối tác chiến lược toàn diện”. Mối quan hệ hợp tác khoa học, công nghệ giữa hai nước đã được chính thức hóa bằng điều ước quốc tế, như Hiệp định về hợp tác khoa học và công nghệ (năm 1993). Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc (V-KIST) là một dự án quan trọng được hỗ trợ bởi nguồn vốn ODA của Hàn Quốc. Các cuộc họp thường kỳ của Ủy ban hỗn hợp về Khoa học và Công nghệ được tổ chức; nhiều dự án nghiên cứu chung đã được triển khai trong các lĩnh vực, như công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ thông tin, biến đổi khí hậu, chuyển đổi số và năng lượng xanh, năng lượng sạch. Các sáng kiến, như Ngày hội đối tác chuyển giao công nghệ toàn cầu Việt Nam - Hàn Quốc, hợp tác trong phát triển đô thị thông minh cũng được đẩy mạnh.

Hàn Quốc đã chia sẻ kinh nghiệm và bí quyết trong các lĩnh vực, như AI, chuyển đổi số và công nghệ lõi đối với Việt Nam. Nhiều sáng kiến được triển khai nhằm tạo điều kiện chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc sang doanh nghiệp Việt Nam. Hợp tác trong phát triển nguồn nhân lực và đào tạo được chú trọng. Nhiều lĩnh vực tiềm năng cho hợp tác tăng cường đã được xác định, bao gồm vật liệu bán dẫn, AI, năng lượng tái tạo, đô thị thông minh và kinh tế số. Mục tiêu tăng cường thương mại và đầu tư song phương trong các lĩnh vực công nghệ cao được đặt ra. Hợp tác trong chuỗi cung ứng khoáng sản quan trọng và công nghệ năng lượng sạch được quan tâm.

Kiểm tra tấm wafer - nguyên liệu để sản xuất sản phẩm cho chất bán dẫn tại nhà máy của Công ty TNHH Hana Micro Vina (vốn đầu tư của Hàn Quốc) chuyên sản xuất chíp bán dẫn tại Khu công nghiệp Vân Trung, tỉnh Bắc Ninh_Ảnh: TTXVN

3- Để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong kỷ nguyên phát triển mới, từ mô hình phát triển của Hàn Quốc, có thể rút ra một số nhận định sau:

Một là, cần tiếp tục phát triển và thực hiện chiến lược toàn diện với tư duy đột phá, tầm nhìn dài hạn cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, bảo đảm sự phối hợp thống nhất để tạo nên một tầm nhìn chiến lược nhất quán, dài hạn và cam kết mạnh mẽ đối với phát triển đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thực sự coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực quan trọng nhất để đất nước bứt phá.

Hai là, cần đẩy nhanh việc xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, khung pháp lý cho khoa học, công nghệ mới, như AI, dữ liệu lớn và kinh tế số. Tiếp tục hoàn thiện, đơn giản hóa thủ tục hành chính và quy định kinh doanh, đặc biệt là thủ tục và quy định gây cản trở, phát hiện điểm nghẽn để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Hành lang pháp lý này cần được tổ chức thống nhất, đồng bộ với hướng dẫn cụ thể, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của lĩnh vực. Bên cạnh đó, cần có quy định rõ ràng về quản trị dữ liệu, an ninh mạng và quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số. Phát triển chính sách đặc thù để khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tinh thần đổi mới, sáng tạo và dám chịu trách nhiệm trong việc thúc đẩy sự phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; cần có sự tham gia của mọi thực thể của quốc gia trong hệ sinh thái này với chính sách và chương trình khuyến khích hợp tác và chia sẻ, giải quyết rào cản, điểm nghẽn đối với hoạt động hợp tác và thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Bốn là, ưu tiên, trọng tâm, trọng điểm đối với nguồn lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; cần có chính sách, chiến lược trong ưu tiên đầu tư vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, năng lực số, bổ sung phát triển chương trình thu hút và “giữ chân” nhân tài cả trong và ngoài nước.

Năm là, định hướng và xây dựng quốc gia số. Cần tiếp tục đầu tư vào hạ tầng số, thúc đẩy việc áp dụng công nghệ số trong tất cả lĩnh vực và phát triển chính sách bảo đảm khả năng tiếp cận toàn diện. Bên cạnh đó, cần phát triển hạ tầng số quốc gia, mở rộng phủ sóng internet băng rộng, triển khai mạng 5G tại đô thị và nông thôn, xây dựng nền tảng dữ liệu lớn (big data), trí thông minh nhân tạo cho tất cả khu vực từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và phát triển bền vững.

Sáu là, đẩy mạnh và thúc đẩy hợp tác quốc tế. Cần tận dụng giá trị của hợp tác quốc tế, đặc biệt với các quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến hơn, đẩy nhanh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tiếp cận kiến thức và chia sẻ nguồn lực toàn cầu. Đồng thời, tập trung thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tích cực tham gia vào dự án nghiên cứu chung, sáng kiến công nghệ và chương trình trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trên thế giới. Kinh nghiệm của Hàn Quốc về khuyến khích doanh nghiệp liên doanh, mua bản quyền và hợp tác R&D với nước ngoài để nhanh chóng nắm bắt công nghệ mới, công nghệ lõi phù hợp với thế mạnh quốc gia cũng là gợi mở cần thiết.

Bài học kinh nghiệm từ hành trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của Hàn Quốc mang lại những hiểu biết sâu sắc và có giá trị. Thành công của Hàn Quốc cho thấy vai trò quan trọng của tầm nhìn chiến lược và cam kết đầu tư dài hạn cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy cần linh hoạt vận dụng mô hình nhà nước điều phối đồng bộ với phát huy sáng tạo của khu vực tư nhân, từ đó phát triển công nghệ chủ chốt, trọng điểm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hoàn thiện hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Việc cụ thể hóa thành chính sách hỗ trợ R&D, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số và thúc đẩy hợp tác quốc tế sẽ giúp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và đạt được sự phát triển bứt phá./.

------------

(1) Xem: OCED, Korean Focus Areas: “A global powerhouse in science and technology” (Tạm dịch: Các lĩnh vực trọng tâm của Hàn Quốc: Một thế lực toàn cầu về khoa học và công nghệ), ngày 25-10-2021, https://www.oecd.org/en/publications/korean-focus-areas_f91f3b75-en/a-global-powerhouse-in-science-and-technology_61cbd1ad-en.html
(2) Xem: OCED, Korean Focus Areas: “A global powerhouse in science and technology” (Tạm dịch: Các lĩnh vực trọng tâm của Hàn Quốc: Một thế lực toàn cầu về khoa học và công nghệ), Tlđd
(3) Chung, Sungchul, “Excelsior: The Korean Innovation Story” (Tạm dịch: Excelsior: Hành trình Đổi mới của Hàn Quốc). Issues in Science and Technology 24, No. 1, tháng 9 - 2007
(4) KDI, Innovation, Competitiveness, and Growth: Korean Experiences (Tạm dịch: Đổi mới Sáng tạo, Năng lực Cạnh tranh và Tăng trưởng: Kinh nghiệm của Hàn Quốc), https://www.kdi.re.kr/upload/12623/a5-2.pdf
(5) Sungjoo Hong: STI in History: Korean STI policies in technology catching-up stage (Tạm dịch: Chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Hàn Quốc trong giai đoạn thu hẹp khoảng cách công nghệ), Journal Science and Technology Policies and Management, 3(2), 2024, tr. 69-81

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/1121802/hanh-trinh-phat-trien-khoa-hoc%2C-cong-nghe-cua-han-quoc--mo-hinh-thanh-cong-ve-phat-trien-khoa-hoc%2C-cong-nghe%2C-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Dòng người đổ về Hà Nội, hòa mình vào không khí hào hùng trước thềm Quốc khánh
Gợi ý các vị trí xem diễu binh, diễu hành ngày Quốc khánh 2/9
Tìm về làng lụa Nha Xá
Ngắm ảnh chụp từ flycam đẹp như tranh của nhiếp ảnh gia Hoàng Lê Giang

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm