Nguồn sáng nơi đại ngàn Trường Sơn
Nhờ vậy, sau hơn 20 năm kể từ ngày hiện diện trên vùng miền núi phía tây của tỉnh Quảng Nam (cũ) và nay là thành phố Đà Nẵng, ngoài nhiệm vụ đóng góp vào sản lượng cho đất nước đang thiếu hụt, những dự án trên thượng nguồn sông Vu Gia-Thu Bồn đã góp phần thay đổi đáng kể cuộc sống của hàng nghìn người đồng bào dân tộc thiểu số nơi Trường Sơn đại ngàn.
Quang cảnh đập thủy điện Sông Tranh 2 nhìn từ trên cao.
“Nơi ở mới phải tốt hơn nơi ở cũ”
Với một ngành nghề còn non trẻ, phải nhờ vào đơn vị tư vấn nước ngoài, nhưng từ Quyết định 797/CP-CN ngày 17/6/ 2003 về việc các dự án điện khởi công năm 2003-2004 và Quyết định số 400/CP-CN ngày 26/3/2004 về việc thực hiện cơ chế đối với các dự án thủy điện của Thủ tướng Chính phủ, những nút thắt trong quá trình xây dựng các nhà máy thủy điện trên địa bàn cả nước nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng đã được tháo gỡ.
Hai quyết định này cho phép chủ đầu tư được chỉ định, lựa chọn nhà thầu có năng lực xây dựng; giảm tỷ lệ tiết kiệm do chỉ định thầu trong tổng dự toán,… Đây là hai cơ chế đột phá mới về quản lý trong việc triển khai xây dựng các nhà máy thủy điện vào thời điểm ấy.
Thủy điện A Vương là công trình thủy điện lớn nhất của tỉnh Quảng Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 317/QĐ-TTg ngày 21/3/2003. Công trình được xây dựng trên sông A Vương, một phụ lưu chính của sông Bung trên hệ thống sông Thu Bồn thuộc địa phận xã Dang, huyện Tây Giang và xã Mà Cooih, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam (cũ), nay là xã Tây Giang và xã Bến Hiên, thành phố Đà Nẵng.
Công trình Thủy điện A Vương có công suất thiết kế 210MW chính thức khởi công vào ngày 31/8/2003. Đến ngày 10/7/2010, công trình được khánh thành. Để xây dựng dự án thủy điện A Vương, đã có 330 hộ với 1.572 nhân khẩu buộc phải di dời, trong đó có 34 hộ với 99 nhân khẩu tự di dời, còn lại 296 hộ với 1.473 nhân khẩu.
Các thôn các xã Mà Cooih của huyện Đông Giang và xã Dang của huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Bến Hiên và xã Tây Giang của thành phố Đà Nẵng trước khi được di dời. (Ảnh được chụp vào năm 2003)
Nhớ lại những buổi đầu bắt tay vào vận động người dân nhường đất, di dời làm dự án thủy điện A Vương, ông Nguyễn Bằng, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1996-2003, nguyên Bí thư Huyện ủy Đông Giang, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2003-2016 chia sẻ, toàn bộ người dân thuộc năm thôn của xã Mà Cooih nằm hoàn toàn trong lòng hồ thủy điện. Cuộc sống người dân vô cùng thiếu thốn với nhiều “cái không”.
Bởi không có đường sá, trường học, trạm y tế, không điện lưới, không nước sạch… nên cái nghèo cứ dai dẳng. Thiếu ăn, bệnh tật vì thế cứ diễn ra triền miên. Làng có người ốm đau, hễ là người trẻ thì được bà con băng rừng, lội suối nhưng hơn một ngày đường mới khiêng ra được trung tâm huyện, còn người già thì nằm lại trong làng. Nhà cửa thì tạm bợ được xây dựng trên các sườn dốc với nỗi lo sạt lở, lũ quét luôn thường trực.
Vai trò của nhân dân là yếu tố quyết định bởi trong gian khó bà con đã hy sinh, đóng góp, đồng hành để làm thủy điện, góp phần giải quyết nhu cầu thiếu điện của đất nước. Ngoài ra, vai trò của Nhà nước là yếu tố then chốt bởi đã thực hiện đúng chế độ chính sách như cam kết cho nhân dân.
Ông Nguyễn Bằng, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1996-2003, nguyên Bí thư Huyện ủy Đông Giang, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2003-2016
Khi có chủ trương đầu tư xây dựng dự án thủy điện A Vương, huyện Đông Giang xác định đây là cơ hội để thực hiện sắp xếp lại dân cư. Bởi lẽ toàn bộ dân cư của xã Mà Cooih nằm ở sườn của sông A Vương với độ dốc quá lớn nên không thể đầu tư xây dựng đường giao thông.
Việc ngăn dòng xây đập thủy điện quan trọng bao nhiêu thì chọn nơi để bố trí tái định cư cho nhân dân càng quan trọng bấy nhiêu. Chính quyền huyện Đông Giang đã đưa ra nhiều vị trí để người dân lựa chọn. Nhà cửa được xây theo nhà truyền thống của người Cơ tu và phải theo nguyên tắc “nơi ở mới phải tốt hơn nơi ở cũ”. Sau khi chọn được vị trí đất, nhà cửa của hàng trăm hộ dân được các chiến sĩ bộ đội và dân quân vào tháo dỡ, vận chuyển. Di dời về nơi ở mới nhưng tên gọi của các thôn vẫn không thay đổi và tất cả phải tuân theo truyền thống văn hóa của đồng bào Cơ tu.
“Vai trò của nhân dân là yếu tố quyết định bởi trong gian khó bà con đã hy sinh, đóng góp, đồng hành để làm thủy điện, góp phần giải quyết nhu cầu thiếu điện của đất nước. Ngoài ra, vai trò của Nhà nước là yếu tố then chốt bởi đã thực hiện đúng chế độ chính sách như cam kết cho nhân dân. Nhìn lại sau hơn 20 năm thủy điện A Vương được hình thành trên mảnh đất miền núi phía tây của thành phố Đà Nẵng bây giờ, tôi thấy rất hạnh phúc và hài lòng”, ông Nguyễn Bằng nói.
Nhà cửa của người dân được xây kiên cố hóa bằng bê-tông theo kiểu nhà sàn truyền thống của đồng bào Cơ tu ở khu tái định cư Pachepalanh.
Đến khu tái định cư Pachepalanh, Cutchrun của năm thôn ở xã Bến Hiên, thành phố Đà Nẵng sau hơn 20 năm di dời về nơi ở mới, cuộc sống của hàng trăm hộ dân đã thay đổi rõ rệt. Dưới công tác đền bù hỗ trợ, toàn bộ những ngôi nhà gỗ lợp bằng lá trước kia đã được xây bằng nhà bê-tông cốt thép kiên cố theo kết cấu nhà truyền thống của đồng bào Cơ tu. Hệ thống điện, đường, trường học, trạm y tế, nước sạch… được đầu tư xây dựng khang trang. Đặc biệt, mỗi thôn được xây dựng mỗi nhà Gươl, nhà văn hóa truyền thống của người Cơ tu để người dân có nơi sinh hoạt cộng đồng.
Ông A lăng Bang, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Mà Cooih, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2004-2008 cho hay, phần lớn đất đai tươi tốt của xã Mà Cooih đều nằm trong khu vực lòng hồ A Vương. Khi di dời về nơi ở mới, mọi thứ đều tốt nhưng đất đai sản xuất bà con phải khai hoang lại từ đầu.
Từ thực tế còn nhiều khó khăn lúc mới về nơi ở mới, địa phương đã kiến nghị lên cấp trên và được Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Công ty cổ phần Thủy điện A Vương hỗ trợ gạo trong ba năm liền với mức 10kg/người/tháng. Ngoài ra, Công ty cổ phần Thủy điện A Vương còn hỗ trợ cho đồng bào hai khu tái định cư Pachepalanh và Cutchrun của huyện Đông Giang 11,5 tỷ đồng; khu tái định cư Alua và Kla của huyện Tây Giang 12,5 tỷ đồng để cải tạo, mở rộng phát triển đất sản xuất. Sau khi vấn đề “cái ăn” hằng ngày được giải quyết, bà con bắt tay vào khai phá đất hoang để làm nương rẫy dưới sự hướng dẫn, giám sát của huyện và xã.
“Nhờ chủ trương của Đảng, Nhà nước đầu tư xây dựng thủy điện mà nay cuộc sống của người dân thay đổi từng ngày. Từ chỗ luôn lo lắng, bất an mỗi khi trời có mưa, nay người dân được định canh, định cư trong căn nhà vững chắc và cuộc sống văn minh, đầy đủ tiện nghi. Về nơi ở mới ai cũng vui mừng lắm!”, ông Alăng Bang nói.
Nhờ chủ trương của Đảng, Nhà nước đầu tư xây dựng thủy điện mà nay cuộc sống của người dân thay đổi từng ngày. Từ chỗ luôn lo lắng, bất an mỗi khi trời có mưa, nay người dân được định canh, định cư trong căn nhà vững chắc và cuộc sống văn minh, đầy đủ tiện nghi. Về nơi ở mới ai cũng vui mừng lắm!
Ông A lăng Bang, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Mà Cooih, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2004-2008
Các thôn các xã Mà Cooih của huyện Đông Giang và xã Dang của huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Bến Hiên và xã Tây Giang của thành phố Đà Nẵng trước khi được di dời. (Ảnh được chụp vào năm 2003)
Đổi thay rõ rệt diện mạo miền núi
Tỉnh Quảng Nam (cũ) có 40 dự án thuộc quy hoạch thủy điện với tổng công suất thiết kế hơn 1.775MW, điện lượng trung bình năm theo thiết kế hơn 6.296 triệu kWh. Hiện đã có 29 nhà máy đi vào vận hành phát điện; 6 công trình đang thi công xây dựng; 5 dự án đang thực hiện các thủ tục đầu tư để khởi công xây dựng. Ngoài ra có 9 dự án thủy điện buộc phải di dân, tái định cư gồm: A Vương, Đăk Mi 4, Sông Tranh 2, Sông Côn 2, Sông Bung 4, Đăk Mi 4C, Tr’Hy, Sông Tranh 4, A Vương 3.
Theo Sở Tài chính và Sở Công thương thành phố Đà Nẵng, những năm qua, các nhà máy thủy điện ở thượng nguồn sông Vu Gia-Thu Bồn đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế-xã hội, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn Quảng Nam và cung cấp nguồn năng lượng lớn cho hệ thống điện quốc gia. Tổng sản lượng điện thương phẩm cũng tăng lên hằng năm. Cụ thể, năm 2020 hơn 3.249 triệu kWh thì đến năm 2025 ước đạt khoảng 5.884 triệu kWh.
Cùng với đó, nguồn thu từ thủy điện cũng tăng theo từng năm, cụ thể, trong giai đoạn từ năm 2020 đến ước năm 2025 tăng từ 669 tỷ đồng lên 1.322 tỷ đồng. Đặc biệt, với sự quyết tâm cao của chính quyền các địa phương và nỗ lực của ngành điện, đến nay, 100% số xã, phường, thị trấn thuộc 17 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (trước khi sáp nhập) đều có điện, đạt tỷ lệ 99,4%.
Diện mạo trường học, đường sá của xã Bến Hiên, thành phố Đà Nẵng được đầu tư khang trang khi di dời về nơi ở mới.
Các nhà máy thủy điện ở thượng nguồn sông Vu Gia-Thu Bồn đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế-xã hội, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn Quảng Nam và cung cấp nguồn năng lượng lớn cho hệ thống điện quốc gia. Cùng với đó, nguồn thu từ thủy điện cũng tăng theo từng năm, cụ thể, trong giai đoạn từ năm 2020 đến ước năm 2025 tăng từ 669 tỷ đồng lên 1.322 tỷ đồng.
Khi các thủy điện ở Quảng Nam hình thành đã mang lại hệ thống giao thông ở vùng miền núi thuận lợi, rút ngắn thời gian đi lại giữa đồng bằng và miền núi. Hơn nữa, vào mùa hè, thủy điện còn hỗ trợ cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, chống nhiễm mặn. Mùa mưa hỗ trợ cắt và giảm lũ đột ngột cho hạ du. Đặc biệt, cùng với các chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số như 30A, 30B, các chương trình mục tiêu quốc gia… việc phát triển sinh kế bền vững cho người dân khu vực lòng hồ thủy điện đều được địa phương và các chủ hồ chứa chú trọng.
Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thủy điện A Vương, Tổng công ty Phát điện 2 Ngô Xuân Thế chia sẻ: “Lúc bắt đầu khởi công xây dựng, công trình thủy điện A Vương cũng như nhiều công trình thủy điện khác gặp nhiều khó khăn. Đến nay, sau hơn 20 năm xây dựng và vận hành, bên cạnh làm chủ được các quy trình, công tác vận hành bảo dưỡng, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, đơn vị còn đóng góp hơn 2.300 tỷ đồng vào ngân sách. Đặc biệt, với chính sách dịch vụ môi trường rừng, từ 20 đồng/chữ điện vào năm 2011, đến nay đã nâng lên 36 đồng/chữ, góp phần đáng kể vào việc phát triển sinh kế và tham gia công tác gìn giữ, bảo vệ rừng của người dân”.
Thả cá vào lòng hồ thủy điện Sông Tranh 2 nhằm tái tạo nguồn lợi thủy sản.
Với phương châm “trao cần câu” để phát triển bền vững kinh tế cho đồng bào dân tộc thiểu số, chủ sở hữu và đơn vị quản lý các nhà máy thủy điện trên địa bàn đã phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức nhiều việc làm thiết thực, cụ thể giúp người dân tại lưu vực các thủy điện vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống như: Mô hình hỗ trợ lương thực và cây giống trồng rừng thay thế nương rẫy ở thủy điện Nước Biêu; thả cá giống, nuôi cá lồng bè trên các hồ thủy điện Sông Tranh 2, Sông Bung 2, Sông Bung 4; mô hình trồng tre lấy măng của thủy điện A Vương…
Đặc biệt, theo Quyết định số 2148/QĐ-UBND ngày 10/10/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành chương trình sinh kế cho người dân lưu vực các hồ thủy điện trên địa bàn đến năm 2025, tất cả các địa phương có hồ chứa thủy điện đều có các loại mô hình sinh kế bền vững cho người dân nhằm huy động mọi nguồn lực nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho phát triển sinh kế người dân tại lưu vực các hồ chứa thủy điện, góp phần thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình của Chính phủ triển khai trên địa bàn. Đồng thời kết hợp đa dạng các loại hình, mô hình phát triển kinh tế, kêu gọi đầu tư để tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội khu vực miền núi, tạo công ăn việc làm, bảo đảm sinh kế lâu dài cho người dân ở địa phương.
Nhà cửa của người dân được xây kiên cố hóa bằng bê-tông theo kiểu nhà sàn truyền thống của đồng bào Cơ tu ở khu tái định cư Pachepalanh.
Ngày xuất bản: 21/08/2025
Tổ chức thực hiện: THÁI SƠN - TRƯỜNG SƠN
Nội dung: ANH QUÂN – ĐỖ VẠN
Trình bày: BÔNG MAI
Nhandan.vn
Nguồn:https://nhandan.vn/special/nguon_sang_noi_daingan_truong_son/index.html
Bình luận (0)