Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Những giải pháp tăng cường quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái dân tộc thiểu số

TS. Ngô Thị Hồng Nhung - Học viện Phụ nữ Việt Nam đã có cuộc trao đổi với PV Báo Phụ nữ Việt Nam xoay quanh vấn đề quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam hiện nay.

Báo Phụ nữ Việt NamBáo Phụ nữ Việt Nam11/08/2025

Những giải pháp tăng cường quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái dân tộc thiểu số- Ảnh 1.

TS. Ngô Thị Hồng Nhung

- Xin bà cho biết lý do vì sao cần đặc biệt quan tâm tới vấn đề đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái DTTS ở Việt Nam?

Trong hệ thống pháp luật quốc tế cũng như của mỗi quốc gia, tiếp cận giáo dục là một trong những quyền cơ bản của con người.

Đầu tư vào giáo dục trẻ em gái sẽ thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng, quốc gia và toàn thế giới. Trẻ em gái có điều kiện thụ hưởng giáo dục lâu dài, ngăn ngừa việc tảo hôn và có cơ hội, khả năng hưởng thụ cuộc sống khỏe mạnh, hiệu quả hơn.

Trẻ em gái có cơ hội nâng cao thu nhập trong tương lai, tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng nhất đến họ và xây dựng tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình nhờ vào tiếp cận giáo dục.

Giáo dục dành cho trẻ em gái củng cố nền kinh tế và giảm bất bình đẳng. Giáo dục cho trẻ em gái góp phần tạo nên một xã hội ổn định, kiên cường hơn, mang lại cho tất cả các cá nhân - bao gồm cả trẻ em trai và nam giới - cơ hội phát huy hết tiềm năng của mình.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, trẻ em gái DTTS vẫn phải chịu sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng trong việc hưởng các quyền cơ bản, trong đó có quyền tiếp cận giáo dục. Chính vì vậy, việc bảo đảm quyền học tập cho nhóm đối tượng này là nhiệm vụ cấp thiết, không chỉ ở góc độ công lý mà còn mang tính chiến lược phát triển bền vững.

- Hiện nay, hệ thống pháp luật và chính sách của Việt Nam đã có những quy định gì để bảo vệ quyền học tập của trẻ em gái DTTS, thưa bà?

Khung pháp lý về giáo dục tại Việt Nam tương đối toàn diện và ngày càng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền học tập cho trẻ em gái DTTS. Cụ thể, Điều thứ 6 Hiến pháp năm 1946 nêu rõ "Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá".

Những giải pháp tăng cường quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái dân tộc thiểu số- Ảnh 2.

Ảnh minh họa

Vấn đề đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp cận giáo dục cho phụ nữ DTTS nói chung và đồng bào DTTS nói riêng cũng được cụ thể hóa thông qua các quy định như: "Ngoài quyền bình đẳng, các DTTS còn được giúp đỡ để về mọi phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung"; hoặc "Nên sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp đỡ. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định "mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội" (Điều 16).

Các luật chuyên ngành như Luật Giáo dục năm 2019, Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014… cũng đưa ra các quy định cụ thể nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận giáo dục và trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, xã hội đối với quyền học tập của trẻ em DTTS.

Chính phủ cũng đã ban hành hàng loạt chính sách hỗ trợ như miễn học phí, hỗ trợ học sinh nội trú, bán trú, chế độ cử tuyển vào trung cấp, cao đẳng, đại học…

Riêng Luật Giáo dục 2019 quy định học sinh DTTS được học tiếng Việt trước khi vào lớp 1, đồng thời được tạo điều kiện học tiếng DTTS của mình. Đây là nền tảng bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục cho nhóm đối tượng đặc thù này.

Những giải pháp tăng cường quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Giáo dục dành cho trẻ em gái củng cố nền kinh tế và giảm bất bình đẳng

- Tuy nhiên, bên cạnh những chính sách pháp lý đó, theo bà, đâu là những rào cản lớn nhất hiện nay khiến trẻ em gái DTTS vẫn gặp khó khăn trong việc đến trường?

Mặc dù khung pháp lý đã khá đầy đủ, nhưng trên thực tế, trẻ em gái DTTS vẫn đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng:

Thứ nhất, sự chênh lệch kinh tế và nghèo đói là một rào cản lớn. Theo Tổng cục Thống kê (2020), thu nhập bình quân ở các tỉnh miền núi như Điện Biên, Hà Giang chỉ khoảng 1,7 - 1,8 triệu đồng/người/tháng, thấp hơn nhiều so với Hà Nội (5,981 triệu), TPHCM (6,537 triệu).

Thu nhập thấp và chênh lệch phát triển giữa vùng đồng bằng và miền núi ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng học tập của trẻ em DTTS.

Thứ hai là khó khăn về cơ sở vật chất và giao thông. Nhiều bản vùng cao như ở huyện Sìn Hồ, Lai Châu, vẫn có tới 18 bản chưa có đường xe máy đến nơi. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở một số tỉnh Tuyên Quang, Điện Biên… khiến việc đến trường trở thành hành trình gian nan, nhất là với các em gái.

Thứ ba, rào cản ngôn ngữ là vấn đề nổi cộm. Trẻ em DTTS chủ yếu nói tiếng mẹ đẻ, ít được tiếp xúc với tiếng Việt trước khi vào lớp 1, khiến các em khó tiếp thu bài giảng, gây chán nản và dễ bỏ học. Theo khảo sát của World Bank (2012), hơn 90% trẻ em DTTS nói tiếng mẹ đẻ ở nhà và nhiều em không được tiếp xúc với tiếng Việt trước khi vào học.

Thứ tư, định kiến giới và phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn cũng là nguyên nhân chủ yếu. Tỷ lệ kết hôn trước 18 tuổi ở người DTTS là 23,1%, cao gấp gần 2,5 lần so với người Kinh (9,2%) (Tổng cục Thống kê, 2020).

Điều này dẫn đến việc nhiều em gái phải nghỉ học sớm để lấy chồng, chăm con, không thể tiếp tục học hành hay tham gia các khóa đào tạo nghề.

Ngoài ra, tình trạng thiếu giáo viên người DTTS có trình độ tốt và cơ sở vật chất còn nghèo nàn cũng khiến chất lượng giáo dục ở các vùng dân tộc thấp hơn rất nhiều so với trung bình cả nước.

Những giải pháp tăng cường quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em gái dân tộc thiểu số- Ảnh 4.

Chính phủ cũng đã ban hành hàng loạt chính sách hỗ trợ như miễn học phí, hỗ trợ học sinh nội trú, bán trú...

- Để đảm bảo quyền học tập cho các em gái DTTS, theo bà, đâu là những giải pháp căn cơ trong thời gian tới?

Trước hết, Chính phủ cần thực hiện hiệu quả các chính sách giảm nghèo bền vững, đặc biệt ở các vùng đồng bào DTTS. Việc cải thiện điều kiện kinh tế gia đình là nền tảng để các em có cơ hội tiếp cận giáo dục một cách ổn định.

Tiếp theo là tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục: xây dựng trường học gần nơi ở, cải thiện đường sá, ký túc xá, nhà ăn… để giúp học sinh không phải đi xa hay sống trong điều kiện thiếu thốn.

Cần phát triển các chương trình giáo dục song ngữ (tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt), mở rộng các bộ sách giáo khoa bằng tiếng dân tộc. Báo cáo tại Ủy ban Quyền trẻ em (2022) cho biết đã có 8 chương trình và 6 bộ sách giáo khoa bằng tiếng dân tộc được xây dựng, hỗ trợ học sinh người Mông, Jrai, Khmer...

Thêm vào đó, phải đẩy mạnh truyền thông, thay đổi nhận thức cộng đồng, nhất là người lớn trong gia đình, để phá bỏ định kiến "học chỉ dành cho con trai". Giáo dục cần đi đôi với vận động xã hội, đặc biệt tại các vùng có phong tục tảo hôn, trọng nam khinh nữ.

Cuối cùng, cần có chính sách đào tạo và tuyển dụng giáo viên DTTS chất lượng cao, hỗ trợ họ bám trường, bám lớp ở những nơi khó khăn, bởi thầy cô chính là cầu nối quan trọng để các em gái DTTS đến được với tri thức và tương lai.

- Trân trọng cảm ơn bà!

Nguồn: https://phunuvietnam.vn/nhung-giai-phap-tang-cuong-quyen-tiep-can-giao-duc-cho-tre-em-gai-dan-toc-thieu-so-20250811115830445.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Từ A50 đến A80 - khi yêu nước là xu hướng
'Bông hồng thép' A80: Từ bước chân thép đến nét đời thường rực rỡ
80 năm Độc lập: Hà Nội rực rỡ sắc đỏ, sống cùng lịch sử
Sân khấu chữ V cao 26m rực sáng trong đêm tổng duyệt ‘Tổ quốc trong tim’

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm