Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Tư duy đổi mới - Từ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh đến quá trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta

TCCS - Tư duy đổi mới trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người, xuyên suốt, nhất quán từ lúc Người ra đi tìm con đường cứu nước cho đến khi Người về với thế giới người hiền. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, tư duy đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là những chỉ dẫn quý báu để Đảng ta hoạch định đường lối, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản12/06/2025

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình_Ảnh: TTXVN

Tư duy đổi mới - Sự nhất quán trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư duy đổi mới của Hồ Chí Minh được bắt đầu từ việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Với trí tuệ xuất chúng và tinh thần độc lập, tự chủ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường và hướng đi hoàn toàn khác với các sĩ phu yêu nước đương thời. Bằng mẫn cảm về chính trị, với một cuộc hành trình khảo nghiệm có một không hai ở các châu lục khác nhau, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm đến học thuyết Mác - Lê-nin và con đường cách mạng vô sản, bởi Người nhận thấy, đây là con đường cứu nước đúng đắn và thực tiễn đã chứng minh, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điển hình là thắng lợi to lớn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Tư duy đổi mới, sáng tạo trong di sản Hồ Chí Minh thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, đổi mới chính là bản chất của cách mạng, xuất phát từ thực tiễn, từ chính lợi ích của nhân dân và dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư duy đổi mới từ rất sớm. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống nho giáo, nhưng Người không bị ràng buộc bởi những tư tưởng nho giáo truyền thống; mà ngược lại, tư tưởng yêu nước của Người thấm nhuần những giá trị văn hóa của dân tộc, gắn nước với dân và lấy đó làm chuẩn mực cao nhất cho mọi giá trị tinh thần. Người sớm nhận thức, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc thì phải đi ra thế giới, tìm hiểu, tiếp nhận thành quả văn hóa, khoa học - kỹ thuật của các nước. Người mong muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm hiểu xem những gì ẩn đằng sau khẩu hiệu: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Do vậy, Người quyết định ra nước ngoài tìm hiểu về nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét họ làm như thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình.

Sau khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư duy đổi mới của lãnh tụ Hồ Chí Minh được nâng lên ở tầm cao mới, mang nội dung khoa học và cách mạng. Người quan niệm: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(1). Do vậy, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Với tư duy “lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”(2), Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho suy nghĩ và hành động, tránh sao chép bất kỳ lý luận nào một cách giáo điều, cứng nhắc. Người nhắc nhở: “Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”(3).

Đồng thời, theo Người, đổi mới phải vì nước, vì dân, ích nước, lợi nhà: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(4); “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(5). Chính vì vậy, trong xây dựng và từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng, trên cơ sở giải quyết thành công mối quan hệ dân tộc và giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước giải quyết thành công các vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, về đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, về Đảng cầm quyền, về nhà nước của dân, do dân và vì dân, về chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh… Đây là những cống hiến quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng thế giới, làm mới mẻ, sinh động và tăng thêm sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1941 đến năm 1969 là giai đoạn đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, nhưng cũng là cuộc đấu tranh anh dũng, quyết liệt, thể hiện nghệ thuật chiến tranh nhân dân sáng tạo dưới sự dẫn dắt của tư duy đổi mới của Người.

Thứ hai, đổi mới là sự kế thừa và phát triển, từng bước phủ định cái cũ không còn phù hợp, nhưng trên cơ sở kế thừa những thành tựu trước đó, kiên quyết đấu tranh chống tư duy phủ định sạch trơn.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới là tất yếu và bao hàm cả giá trị cũ, trên cơ sở cải biến cái cũ. Người giải thích: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý”(6). Đổi mới để tiến lên là một tất yếu, là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, bởi “xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến… năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng” và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(7).

Tư duy đổi mới Hồ Chí Minh được biểu hiện xuyên suốt qua các tác phẩm của Người, như “Đường cách mệnh”, “Đời sống mới”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Dân vận”,… và tác phẩm cuối cùng là bản Di chúc lịch sử. Di chúc kết tinh tư duy đổi mới, thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác phẩm được viết trong khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta đang diễn ra ác liệt, nhân dân ta còn phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng với tầm nhìn xa, trông rộng, Người đã trăn trở, tiên liệu về những công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi. Người chỉ rõ: Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, công việc mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là “mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”(8). Người đã “phác thảo kế hoạch” bao quát về mở rộng kinh tế, phát triển công tác vệ sinh, y tế, giáo dục, quốc phòng, công việc thống nhất Tổ quốc… Người căn dặn Đảng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi thiếu sót, bị động, sai lầm trong công cuộc xây dựng lại đất nước ta đẹp đẽ, đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trước chiến tranh và nhấn mạnh: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(9).

Thứ ba, đổi mới là một cuộc “chiến đấu khổng lồ”, toàn diện trên các lĩnh vực, nên đây là một quá trình lâu dài, phức tạp, khó khăn, gian khổ, đòi hỏi phải luôn dựa vào dân và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đổi mới “là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi... trong cuộc chiến đấu khổng lồ”(10). Người lường trước những khó khăn, phức tạp đối với cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng phải chỉnh đốn toàn diện, đoàn kết nhất trí từ các đồng chí Trung ương đến các chi bộ; thực hành dân chủ rộng rãi bằng cách thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; thái độ nhân văn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(11); thật sự thấm nhuần và tu dưỡng đạo đức cách mạng; nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân.

Muốn thực hiện được nhiệm vụ hết sức nặng nề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phát huy vai trò to lớn của nhân dân và chỉ rõ “công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân(12). Người khẳng định rằng: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(13).

Tư duy đổi mới thấm vào toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuyên suốt, nhất quán từ lúc Người ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc cho đến tận cuối đời. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, những quan điểm của Người luôn luôn là “kim chỉ nam” để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng.

Cán bộ Công an xã đến tận hộ gia đình tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện các thủ tục hành chính trên môi trường điện tử_Ảnh: TTXVN

Tiếp tục quán triệt tư duy đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Năm 1986, Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư duy đổi mới sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kinh tế, chính trị, chính sách đối nội, đối ngoại,… với những giá trị vượt thời gian. Qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới với nhiều thành tựu đạt được, nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã ngày càng sáng tỏ hơn. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta bước đầu được hình thành trên những nét cơ bản.

Kế thừa tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục xác định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Đảng ta luôn đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc.

Tại Đại hội XI, Đảng ta đã xác định 8 đặc trưng cơ bản về xã hội mà chúng ta đang xây dựng, dựa trên sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(14).

Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn mới, Đảng ta xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội(15). Qua gần 40 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta được kỳ vọng sẽ có những thay đổi mang tính “đột phá” bởi sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc cải cách, đổi mới, sáng tạo. Đây là con đường đúng đắn để đất nước ta phát triển bền vững.

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế đã đưa Việt Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo để bước vào nhóm các nước phát triển trung bình. Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(16). Những thành tựu của công cuộc đổi mới là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn những hạn chế nhất định: Tốc độ phát triển của Việt Nam còn chậm, chưa thực sự bền vững. Đời sống của nhân dân được cải thiện nhưng không đồng đều, nhất là những bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Nhiều giá trị văn hóa tinh thần, đạo đức, lối sống tốt đẹp bị xuống cấp... Vẫn còn đó những thách thức của thời đại, như mặt trái của vấn đề toàn cầu hóa, các vấn đề an ninh phi truyền thống (thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh nguồn nước...). Vẫn còn đó bốn nguy cơ mà Đảng xác định tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đại hội VII (năm 1994): Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế; nguy cơ về “diễn biến hòa bình”; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ tham nhũng, tiêu cực.

Hiện nay, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cần nhận thức sâu sắc những thành tựu và hạn chế, thời cơ và thách thức..., để trên cơ sở đó có định hướng chỉ đạo và có quyết sách đúng đắn, kịp thời, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã đề ra mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, phấn đấu “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp./ - Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao./ - Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(17). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, cần nhận thức sâu sắc hơn về giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư duy đổi mới của Người nói riêng, trên cơ sở nắm vững những quan điểm cơ bản sau:

Một là, nắm vững quan điểm đổi mới không phải “đổi màu”, phải luôn kiên định giữ vững mục tiêu, lý tưởng của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của dân tộc và thời đại. Đây là mục tiêu bất biến mà nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu, hy sinh, theo đuổi hơn 95 năm qua dư­­ới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn đổi mới thắng lợi phải kiên định, vững vàng, không ngừng sáng tạo và không dao động, không rơi vào giáo điều, rập khuôn, máy móc.

Hai là, đổi mới trên cơ sở phát huy nội lực, dựa vào sức mình là chính, lấy lợi ích của dân tộc, của nhân dân làm nền tảng. Đây là chủ trương chiến lược, một vấn đề cơ bản trong đường lối đổi mới của Đảng. Phát huy các yếu tố nội lực, mà trước hết là tiềm năng, sức mạnh con người Việt Nam với phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống văn hóa chính trị, đạo đức và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đổi mới đúng đắn cùng với đất đai, tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm đã được tích lũy. Trong công cuộc đổi mới, nhân dân luôn là mục tiêu và động lực của sự phát triển; do đó, cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, tôn trọng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân đã được Hiến pháp quy định, cần không ngừng tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân về lòng yêu nước, nâng cao dân trí, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, là cơ sở để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc - cơ sở cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, không ngừng sáng tạo trong việc lựa chọn hình thức, bước đi phù hợp. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta thực hiện đổi mới từng phần, từng lĩnh vực, tiến lên đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với cách thức, bước đi sát hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới là một cuộc cách mạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong từng nội dung đổi mới cũng bao gồm nhiều mặt, bắt đầu từ đổi mới nhận thức, đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và phương pháp làm việc. Do đó, nếu đổi mới chỉ dừng lại ở một lĩnh vực hay chỉ một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn; đồng thời, trong mỗi bước đi của đổi mới cần phải xác định đúng khâu then chốt, trọng yếu để tập trung nguồn lực giải quyết, làm cơ sở để đổi mới các khâu và các lĩnh vực khác.

Bốn là, đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, “một cuộc chiến khổng lồ” giữa cái mới và cái cũ. Để đổi mới giành thắng lợi, Đảng phải giữ vững vai trò lãnh đạo của sự nghiệp đổi mới; đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích làm động lực chủ yếu cho sự phát triển. Đặc biệt, Đảng phải tăng cường và giữ vững bản chất giai cấp công nhân, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Đảng phải được xây dựng vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đồng thời, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, biểu hiện tiêu cực, yếu kém để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, sẵn sàng đón nhận những thời cơ và thách thức mới trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam./.

-----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 284
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 95
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 98 - 99
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 21
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 112
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 377
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,  t. 15, tr. 611
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 70
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 128 - 129
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 103 - 104
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 112

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1093802/tu-duy-doi-moi---tu-di-san-tu-tuong-ho-chi-minh-den-qua-trinh-nhan-thuc--va-van-dung-cua-dang-ta.aspx


Bình luận (0)

No data
No data
Bản làng trên đỉnh núi ở Yên Bái: Mây phủ bồng bềnh, đẹp như tiên cảnh
Bản làng ẩn mình trong thung lũng ở Thanh Hóa hút du khách tới trải nghiệm
 Thành phố Hồ Chí Minh ẩm thực kể chuyện phố phường
Việt Nam - Ba Lan vẽ nên 'bản giao hưởng ánh sáng' trên bầu trời Đà Nẵng

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm