Đường lối phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 tại Đại hội XIII nêu rõ, mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới, kỷ nguyên mới là tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và thành tựu công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực, thế giới. Trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau... Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị cũng đã chỉ ra định hướng chiến lược và được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp đồng thuận, xem đây như một “khoán 10” trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ, vừa là thách thức trên con đường phát triển. Để tận dụng được lợi thế của Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình, việc nhận thức được vấn đề đặt ra trong quá trình bứt phá kinh tế số để trở thành một động lực bền vững là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng.
Vai trò của kinh tế số trong kỷ nguyên mới
Kinh tế số đang ngày càng trở thành một động lực quan trọng, đóng vai trò then chốt trong việc định hình lực lượng sản xuất và phương thức tăng trưởng mới, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức trong thời đại số. Kinh tế số thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tạo ra cơ hội kinh doanh mới, sản phẩm và dịch vụ mới, qua đó mở rộng thị trường và tạo điều kiện cho doanh nghiệp xâm nhập và tiếp cận quy mô toàn cầu. Kinh tế số không chỉ tạo ra việc làm trong lĩnh vực lõi là công nghệ thông tin và truyền thông, mà còn trong hầu hết lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó nổi bật là các ngành, như logistics, marketing số, dịch vụ khách hàng, giáo dục, y tế… Nhờ tiếp cận dịch vụ và thông tin trở nên dễ dàng hơn với chi phí tối thiểu, công nghệ số giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, kinh doanh, từ đó giảm chi phí và nâng cao hiệu quả, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa khu vực địa lý và xã hội. Việc áp dụng công nghệ số góp phần nâng cao tính minh bạch trong quản lý ở cả khu vực công và tư, cải thiện được quan hệ sản xuất và hiệu quả của thiết chế kiến trúc thượng tầng. Trên phương diện toàn cầu, sự phát triển của kinh tế số giúp thúc đẩy hợp tác, hội nhập kinh tế và giải pháp công nghệ số có thể giúp giải quyết các “bài toán toàn cầu” liên quan đến biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Trong gần 40 năm qua, kinh tế Việt Nam là một ví dụ điển hình của một nền kinh tế liên tục tăng trưởng. Nhưng cũng như nhiều nước, Việt Nam đang đối diện “bẫy thu nhập trung bình”, sức ép cạnh tranh “kép” đối với nước ta hiện nay là từ các quốc gia thu nhập thấp có thị trường lao động giá rẻ và từ các quốc gia thu nhập cao với công nghệ và năng suất cao hơn. Trong bối cảnh mới này, chiến lược kinh tế đã mang đến thành công cho Việt Nam với mức tăng trưởng cao trong gần 40 năm qua sẽ không tiếp tục đem lại mức tăng trưởng và phát triển tương tự trong tương lai. Để chuyển từ vị thế quốc gia thu nhập trung bình thấp sang thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần vượt qua được phương thức tăng trưởng dựa vào thị trường lao động giá rẻ, phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), để chuyển sang phương thức tăng trưởng dựa trên thâm dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động trong toàn bộ nền kinh tế.
Kinh nghiệm vượt qua bẫy thu nhập trung bình của các nước cho thấy, quốc gia thu nhập trung bình và thấp thường lúc đầu trải qua giai đoạn “bắt kịp công nghệ” thông qua hệ thống “thực hành tốt nhất” công nghệ hiện có của quốc gia thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, về dài hạn, sự “bắt chước” này sẽ không bền vững trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao khi quốc gia đó bước lên nấc thang thu nhập cao hơn. Đứng trước bước ngoặt trong hành trình vượt qua bẫy thu nhập trung bình và bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam cần nhanh chóng xác định kinh tế số sẽ đóng vai trò dẫn dắt trong hành trình này, là động lực mở đường cho việc tạo lập một sức sản xuất mới, một quỹ đạo tăng trưởng mới, nhanh và bền vững. Kinh tế số với đầu vào then chốt là công nghệ số và dữ liệu sẽ tạo thành một “lực lượng sản xuất trong bối cảnh mới”, góp phần nâng cao hiệu quả và giảm chi phí giao dịch trong nền kinh tế, giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực khác nhau, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, tạo cơ hội để Việt Nam có thể bứt tốc phát triển kinh tế đất nước.
Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam thời gian qua
Nhận thức được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của kinh tế số, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và có nhiều chủ trương, giải pháp kịp thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang phương thức sản xuất số. Nhiệm vụ phát triển kinh tế số và xã hội số được đặt ở mức ưu tiên cao trong chiến lược phát triển quốc gia. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực ban hành chương trình/chiến lược về chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số với nhiều mục tiêu cụ thể cần đạt được. Tuy nhiên, xét về tính hiệu quả trong triển khai phát triển kinh tế số, cần đánh giá qua một số vấn đề sau:
Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) còn nhiều thách thức.
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê năm 2023, xét trên toàn bộ nền kinh tế, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP các năm từ 2020 đến 2023 trung bình là khoảng 12,62%. Trong đó, ngành kinh tế số lõi đóng góp 7,42% (chiếm 60,19%), số hóa các ngành khác đóng góp 4,91% (chiếm 39,81%). Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP có xu hưởng giảm trong năm 2023 do ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (chiếm khoảng hơn 30% tổng giá trị tăng thêm của hoạt động kinh tế số) giảm do nhu cầu thế giới đi xuống. Mặc dù, các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm do ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong công tác quản lý điều hành có xu hướng tăng lên, nhưng không nhiều, chỉ từ 6,53% năm 2020 lên 6,65% năm 2023.
Đóng góp của kinh tế số vào tăng trưởng năng suất lao động còn khiêm tốn.
Mặc dù năng suất lao động không phải là chỉ số phản ánh toàn diện nhất, nhưng trong dài hạn, một đất nước có năng lực cải thiện mức sống qua thời gian hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng gia tăng sản lượng (năng suất) của người lao động. Xét tổng thể, mặc dù năng suất lao động của nước ta tăng đều qua các năm, nhưng nhìn chung hiệu suất lao động của toàn nền kinh tế chưa cao và khoảng cách tuyệt đối về năng suất lao động với các nước trong khu vực vẫn còn khá lớn. Phân tích định lượng trong giai đoạn 2012 - 2017, theo quan điểm của một số chuyên gia, xét về tổng thể cho thấy ảnh hưởng của kinh tế số đến năng suất lao động Việt Nam còn rất khiêm tốn với tỷ lệ tăng trưởng đạt 5,3%, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác; tuy nhiên, có thể thấy đây là giai đoạn phát triển ban đầu của kinh tế số tại Việt Nam. Trong bối cảnh việc duy trì mức tăng năng suất lao động đang dần trở nên khó khăn hơn, kinh tế số được kỳ vọng sẽ là một động lực mới cho cải thiện năng suất lao động trong giai đoạn tới. Như vậy, khi kinh tế số và chuyển đổi số trên đà tăng trưởng sẽ làm thay đổi cơ bản hiệu quả và năng suất của nhiều ngành kinh tế. Bên cạnh đó, để Việt Nam duy trì được mức tăng trưởng cao, vượt qua giai đoạn thu nhập trung bình thấp và tiến tới trở thành quốc gia thu nhập cao, con đường tăng năng suất lao động phải dựa trên đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế số. Yếu tố mang tính quyết định của quá trình này là đầu tư hiệu quả vào cả hạ tầng cứng và mềm, góp phần tăng năng suất trong tất cả ngành/lĩnh vực của nền kinh tế.
Tiềm năng tác động của kinh tế số đến năng suất lao động và gắn kết với tăng trưởng xanh còn nhiều.
Dựa trên bốn kịch bản phát triển kinh tế số trong Báo cáo “Nền Kinh tế số tương lai của Việt Nam hướng tới năm 2030 và năm 2045” năm 2019 của Tổ chức Nghiên cứu hoa học và công nghiệp thịnh vượng chung (CSIRO) (Ô-xtrây-li-a), với phương pháp tính toán theo mô hình kinh tế “hàm sản xuất truyền thống”, ước tính đóng góp của kinh tế số đến năng suất lao động giai đoạn 2020 - 2030, trung bình mỗi năm, từ 7 - 16,5% trong 100% tốc độ tăng trưởng năng suất lao động tổng thể. Như vậy, có thể thấy kinh tế số là một phần đóng góp quan trọng trong năng suất và hiệu quả của nền kinh tế và là một động lực mới cho cải thiện nhanh chóng năng suất lao động để đạt được mục tiêu của “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” là năng suất lao động hằng năm tăng tối thiểu 7% trong giai đoạn đến năm 2025 và 8% đến năm 2030.
Lồng ghép “kinh tế số” và “kinh tế xanh” trong “tăng trưởng kép”.
Mặc dù khái niệm “kinh tế xanh” như một phương thức tăng trưởng mới xét về mặt thời gian xuất hiện muộn hơn nhiều so với “kinh tế số”, nhưng hai phương thức này đang cùng hiện hữu và sẽ “đồng hành” trong thời gian tới. Bên cạnh tác động kinh tế và xã hội như một nguồn tăng trưởng mới, tác động môi trường của tăng trưởng kinh tế số đang nhận được sự quan tâm đặc biệt. Tác động môi trường của nền kinh tế số được chia thành các nhóm, bao gồm tác động của lĩnh vực công nghệ thông tin, tác động của ứng dụng điện tử và tác động của thương mại điện tử. Việc xem xét nền kinh tế kỹ thuật số vì lợi ích không chỉ về kinh tế, mà còn cả giá trị môi trường và xã hội đã dẫn đến khái niệm “bền vững kinh tế kỹ thuật số” như một giải pháp cho vấn đề môi trường.
Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế số
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng, do vậy quan hệ sản xuất cũng sẽ có biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số. Đến lượt mình, sự thay đổi trong quan hệ sản xuất sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra vai trò mới của Nhà nước và phương thức mới trong quản trị xã hội, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa Nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội. Do vậy, để khai thác tiềm năng phát triển kinh tế số, cần tiến hành một cách đồng bộ giải pháp, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, bao gồm:
Thứ nhất, việc phát triển kinh tế số cần có sự xác lập, định hướng của khung thể chế sao cho phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, đặc biệt là mô hình và phương thức kinh doanh mới để kinh tế số sớm tăng quy mô và gia tăng tỷ trọng đóng góp trong tăng trưởng nói chung. Quá trình quản lý phát triển nền kinh tế số có thể nghiên cứu cách tiếp cận về quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước để đạt được điểm cân bằng giữa yêu cầu “tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo liên quan tới việc phát triển và ứng dụng kinh tế số” với yêu cầu “bảo đảm trật tự của thị trường”. Trong thời gian qua, sự bùng nổ của công nghệ số kéo theo sự hình thành và phát triển đa dạng hình thức, chiến lược và giải pháp kinh doanh mới dựa trên công cụ số đã che mờ đi nhiều khía cạnh tác động của công nghệ số và kinh tế số tới nền kinh tế. Điều này đang đặt ra thách thức lớn trong việc đo lường kinh tế số một cách nhất quán để so sánh và xây dựng các giá trị kinh tế số “cơ sở” của một năm, làm căn cứ cho việc đặt mục tiêu phát triển kinh tế số về quy mô và tốc độ phát triển.
Thứ hai, chính sách phát triển kinh tế số cần cụ thể, như khuyến khích phát triển doanh nghiệp “lõi” trong kinh tế số, ưu tiên phát triển kinh tế số với trọng tâm là doanh nghiệp, sản phẩm công nghệ số “Make in Vietnam”; ưu đãi thuế cho lĩnh vực phần mềm, khu công nghệ cao; phát triển kinh tế số nền tảng với trọng tâm là nền tảng số quốc gia, dùng chung, thống nhất trong từng ngành, lĩnh vực.
Thứ ba, về định hướng lựa chọn và phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, cần phát triển một số ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp đặc thù gắn với chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, như doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực, thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng theo tinh thần “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và trên thế giới”.
Thứ tư, gia tăng đầu tư, đặc biệt là đầu tư công nhằm nâng cấp đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ số thiết yếu và rộng khắp, bao quát mọi góc cạnh của nền kinh tế và đến từng công dân. Tuy nhiên, để có một nền kinh tế chuyển đổi số mạnh mẽ, cần có một nguồn lực rất lớn, không thể chỉ đến từ nguồn ngân sách nhà nước, mà phải dựa chính vào nguồn vốn xã hội đến từ khu vực tư nhân và khu vực FDI. Vì vậy, cần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng để thu hút nguồn vốn dành cho đầu tư số hóa nền kinh tế, hạ tầng và dịch vụ số.
Thứ năm, cần nâng cao nhận thức, hiểu biết đúng đắn, toàn diện về cả lợi ích và thách thức môi trường đối với phát triển kinh tế số theo hướng tối ưu nhất hướng tới phát triển bền vững, có sự chuẩn bị tốt nhất về khả năng tích hợp các xu hướng phát triển này đối với cơ quan quản lý nhà nước, ngành, địa phương và khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số và đổi mới xanh, cần tận dụng việc giảm chi phí bên trong và bên ngoài, liên kết giữa chuyển đổi số và đổi mới xanh trong kế hoạch kinh doanh, nâng cao trách nhiệm xã hội, góp phần phát huy tác động lan tỏa của chuyển đổi số và đổi mới công nghệ xanh.
Thứ sáu, bước vào kỷ nguyên kỹ thuật số, đổi mới mang tính cách mạng trong nền kinh tế số đã làm thay đổi đáng kể phương thức sản xuất và cách sống, cách tiếp cận về vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Trong bối cảnh này, vai trò của nhà nước và khu vực kinh tế nhà nước cần được điều chỉnh theo hướng thích ứng về hiệu quả, xây dựng một khuôn khổ thể chế và pháp lý hiệu quả thúc đẩy hiệu quả kinh tế kỹ thuật số trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu, rộng./.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/1092902/vai-tro-dong-luc-cua-kinh-te-so-trong-ky-nguyen-phat-trien-moi.aspx
Bình luận (0)