Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của đất nước
Từ việc nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng, dân chủ là sản phẩm và là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, là hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền và là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của toàn dân và xã hội; bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Theo đó, chỉ khi mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì mới bảo đảm về căn bản việc nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách như một quyền lợi.
Dân chủ với tư cách là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong. Song, dân chủ với tư cách một giá trị xã hội, là một phạm trù vĩnh viễn cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Chừng nào con người và xã hội loài người còn tồn tại, chừng nào nền văn minh nhân loại còn hiện hữu thì dân chủ vẫn tồn tại với tư cách một giá trị chung của nhân loại. Về tổng thể, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, người dân là chủ thể của xã hội một cách toàn diện: Làm chủ nhà nước, xã hội và làm chủ chính bản thân mình; sở hữu mọi năng lực sáng tạo với tư cách chủ thể đích thực của xã hội. Mặt khác, dân chủ phải bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ dân chủ trong kinh tế, chính trị đến dân chủ trong xã hội và đời sống văn hóa - tinh thần, tư tưởng, trong đó, kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cốt yếu, thể hiện trực tiếp quyền con người (nhân quyền) và quyền công dân (dân quyền) của người dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phát triển nền dân chủ theo tinh thần: 1- Dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung. Người đã khẳng định “dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(1); 2- Khi coi dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội, Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân”(2). Người cho rằng, chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ; và một khi nước ta đã trở thành một nước dân chủ, “chúng ta làm chủ” thì dân chủ là “dân làm chủ” và “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng”(3).
Từ những quan điểm nêu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng ta khẳng định “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(4).
Quán triệt và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là một nước dân chủ”(5), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng khẳng định, chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là xã hội “do nhân dân làm chủ”(6) ở đó, quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo, thực hiện nhất nguyên về chính trị. Đảng, Nhà nước phải tạo ra cơ chế, chính sách, luật pháp khoa học phù hợp; mặt khác, người dân phải phấn đấu, rèn luyện, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ, phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước “đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”(7).
Trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu sắc, để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,… nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”(8), không có dân chủ xã hội chủ nghĩa thì không có chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là đỉnh cao trong quá trình phát triển của nền dân chủ, một nền dân chủ khác về bản chất và phát triển cao hơn nền dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết tinh trong bản thân mình toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và có thêm những giá trị dân chủ mới tiến bộ. Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới, ý thức dân chủ của công dân và của xã hội, trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên; sự bảo đảm về quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội được luật hóa cụ thể hơn và thực hiện từng bước có kết quả tích cực. Mặt khác, người dân tham gia ngày càng trách nhiệm và hiệu quả vào việc xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân hiện nay
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền về tay nhân dân, lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “NƯỚC TA LÀ MỘT NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(9).
Như vậy, ngay từ ngày đầu thành lập nước, Đảng đã xác định “chế độ ta” theo chế độ dân chủ. Trải qua quá trình phát triển, quan điểm về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn luôn kiên định, ở mỗi giai đoạn lại bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, cụ thể. Tại Đại hội XIII của Đảng, vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa được nhấn mạnh: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân; tăng cường tạo đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(10).
Như vậy, việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với những quan điểm bổ sung, phát triển được thực hiện theo từng giai đoạn phát triển khác nhau nhưng về bản chất, phương thức, động lực phát triển đất nước đều thống nhất, khẳng định mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Nhân dân thực hiện quyền là chủ và làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong suốt quá trình phát triển.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt qua gần 40 năm đổi mới, thể hiện rất rõ và hết sức sinh động những tiến bộ đạt được trong phát huy dân chủ, cũng như xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng chỉ rõ, để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, bởi dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn, kiên định, kiên trì theo đuổi. Không xây dựng được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ không có chủ nghĩa xã hội. Điều này đòi hỏi phải có “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(11). Hệ thống chính trị đó phải “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người…”(12). Phải thông qua cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bởi, đây là “mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(13). Cơ chế tổng quát này là một trong “mười mối quan hệ lớn” cần được tăng cường nắm vững và giải quyết trong giai đoạn hiện nay.
Thể chế thực thi các quyền làm chủ của nhân dân từng bước được xác lập, cụ thể hóa và đi vào cuộc sống. Ý thức dân chủ của công dân và của xã hội, trình độ làm chủ của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Nhiều chủ trương, biện pháp phát huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân đã được thực hiện hiệu quả. Niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước được củng cố. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, tính ưu việt của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy cùng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Thứ nhất, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế có bước phát triển quan trọng là cơ sở cho sự bảo đảm dân chủ trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đường lối xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, hình thức phân phối, bình đẳng trước pháp luật, hoạt động theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, đã tạo điều kiện nền tảng cho việc thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao liên tục từ năm 1986 tới nay. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, theo giá hiện hành năm 2024 ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD/lao động, tăng 726 USD so với năm 2023)(14).
Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị, dân chủ trong Đảng, Nhà nước, đoàn thể và xã hội phát huy hiệu quả, tích cực. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng hơn. Hệ thống chính trị có những đổi mới theo hướng tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả; dân chủ hóa, công khai minh bạch trong phương thức hoạt động, qua đó dân chủ xã hội ngày càng được phát huy, hiệu quả. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng mở rộng và phát huy dân chủ, nhất là vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân. Các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được mở rộng, đổi mới và thực hiện hiệu quả hơn.
Thứ ba, dân chủ trong lĩnh vực văn hóa - xã hội được đẩy mạnh và thực thi hiệu quả hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các giải pháp hữu hiệu trong các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, công nghệ, môi trường… ngày càng hoàn thiện và đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Nhiều văn bản pháp luật đã cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp hơn với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được luật hóa và từng bước đi vào cuộc sống. Công bằng, bình đẳng xã hội có bước tiến bộ rõ rệt. Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân ngày càng được quan tâm và phát huy hiệu quả tích cực.
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế:
Một là, “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”(15). Ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ, thực hiện dân chủ cơ sở còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực.
Hai là, nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số nơi rơi vào hình thức. Còn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, cửa quyền gây phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định... Hệ thống pháp luật của Việt Nam có mặt còn chưa đồng bộ, gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội... Những hạn chế đã nêu phải sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực chất.
Ba là, thể chế để phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn những bất cập. Một số luật đã được ban hành, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư...
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên do hoạt động của hệ thống chính trị chưa thực sự đồng bộ; các điều kiện để người dân làm chủ chưa đầy đủ; sự thiếu gương mẫu về dân chủ trong tổ chức, hoạt động của một số tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; vẫn còn hiện tượng thiếu ý thức dân chủ, lợi dụng dân chủ… Những mặt hạn chế này đã ảnh hưởng lớn tới bản chất, mục tiêu, động lực của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng, mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam nói chung, cần được tập trung quan tâm, khắc phục.
Để phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới
Thứ nhất, thực hiện nhất quán mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là mục tiêu quan trọng mang tính bao trùm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt nội dung này sẽ bảo đảm Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo đó, cần chủ động trong lựa chọn và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân có cơ hội, điều kiện tham gia vào các hoạt động quan trọng của đất nước, để nhân dân quyết định những công việc quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải hướng tới việc bảo đảm đầy đủ các điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, chỉ có như vậy, quyền lực của Nhà nước ở địa phương mới được củng cố và tăng cường.
Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển”(16). Nhà nước mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả là thể hiện năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Xây dựng nhà nước kiến tạo, chính phủ liêm chính, hành động, phục vụ, nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch(17)… Xây dựng các thiết chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định. Tăng cường năng lực dễ tiếp cập pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh nghiệp”(18) với chi phí tuân thủ thấp, có sức cạnh tranh quốc tế của hệ thống pháp luật. Thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chú trọng lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, Cương lĩnh của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là nhân tố có vai trò quyết định bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đi đôi với chú trọng đẩy mạnh giáo dục đạo đức, khắc phục những hạn chế trong hoạt động của Nhà nước.
Quán triệt và vận dụng tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống” nhằm xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt, cần chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân, nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật; kiên quyết, kiên trì đấu tranh từng bước đẩy lùi biểu hiện tha hóa, biến chất, các hành vi tham ô, tham nhũng, lãng phí của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp trong bộ máy công quyền nhà nước phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân.
Thứ tư, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đồng thời có chính sách thỏa đáng để chăm lo đời sống cho nhân dân.
Trình độ dân trí của nhân dân được nâng lên, đời sống của nhân dân được bảo đảm sẽ góp phần tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng thời là điều kiện tiên quyết để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Đảng và Nhà nước cần đề ra các chính sách thỏa đáng để nâng cao dân trí, chăm lo đời sống cho người dân, bảo đảm các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người… Bên cạnh đó, cần quan tâm chăm lo đến đời sống cho nhân dân, với những biện pháp cụ thể: Chăm lo đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn cả về vật chất và tinh thần; xác định đầu tư cho giáo dục, y tế là nhiệm vụ chiến lược nhằm nâng cao chất lượng dân sinh; tìm hướng đi phù hợp để phát triển hạ tầng giao thông nông thôn, có những giải pháp tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, xây dựng hình ảnh cán bộ uy tín với dân…
Thứ năm, chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là gốc của mọi công việc, cán bộ tốt thì công việc suôn sẻ, cán bộ kém thì công việc cách mạng sẽ gặp khó khăn, trở ngại. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước là lực lượng đại diện cho nhân dân, được nhân dân tin tưởng ủy thác để tham gia vào công tác quản lý, điều hành bộ máy nhà nước. Theo đó, tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của Nhà nước về mọi mặt, như phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực lãnh đạo, quản lý để họ thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(19). Đồng thời, cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức nhà nước có đạo đức, tác phong công tác chuyên nghiệp, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, ra sức cống hiến, tận tụy, tận tâm phục vụ nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh toàn diện.
Thứ sáu, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương.
Để làm tốt điều này cần lên án những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ ảnh hưởng tới an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân./.
----------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 434
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 382
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 572
(4) Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 28
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 397
(6) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Phần II (Đại hội X, XI, XII), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 18
(7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 28
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 232
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. II, tr. 332
(11) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 16-5-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam
(12), (13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 28
(14) Xem: Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội Quý VI và năm 2024, ngày 6-1-2025, Cục Thống kê - Bộ Tài chính, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/01/thong-cao-bao-chi-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024/#:~:text=Quy%20m%C3%B4%20GDP%20theo%20gi%C3%A1,USD%20so%20v%E1%BB%9Bi%20n%C4%83m%202023.
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 89
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 146
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 147
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 149
(19) Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 24
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/1076102/xay-dung-va-phat-huy-nen-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-boi-canh-moi.aspx
Bình luận (0)