LÒ RÈN NGÀY CÀNG THƯA THỚT
Những năm đầu sau giải phóng, thống nhất đất nước là giai đoạn nghề rèn thịnh hành nhất. Khi chiến tranh kết thúc, người dân tập trung lao động sản xuất, phát triển kinh tế gia đình và xây dựng quê hương, kéo theo nhu cầu sử dụng sản phẩm rèn tăng cao. Thạc sĩ, Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Thành Thuận, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Tháp, chia sẻ: “Trước đây, nghề rèn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, vì làm ra các đồ dùng, công cụ lao động trong nông nghiệp, như: Dao, phảng, lưỡi hái...”.
Nghề rèn thủ công “cha truyền con nối” đang dần mai một theo thời gian do thiếu người nối nghiệp. |
Tuy nhiên, trước sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nghề rèn thủ công dần bị mai một bởi sự xuất hiện của máy móc hiện đại và các sản phẩm kim khí được sản xuất hàng loạt với tính thương mại cao. Dẫu vậy, ở một số nơi, các hộ dân vẫn còn duy trì nghề rèn theo kiểu “cha truyền con nối”, chủ yếu sản xuất sản phẩm dùng trong gia đình hoặc công cụ lao động đơn giản.
Thạc sĩ, Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Thành Thuận, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Tháp, cho biết: “Một thực trạng của nghề rèn truyền thống hiện nay là tính “cơ giới hóa” dần chiếm ưu thế trong sản xuất ra các loại nông cụ, ngư cụ bằng kim loại để phục vụ sản xuất. Điều đó dẫn đến nghề này dần bị mai một, người kế tục cũng không còn theo nghề”. |
Chúng tôi có dịp về xã Phú Hựu (tỉnh Đồng Tháp) và được nghe những người lớn tuổi kể lại, ngày xưa xóm lò rèn Cái Tàu Hạ nổi tiếng với nghề rèn truyền thống rất nhộn nhịp. Khi đến đây, mọi người có thể nghe rõ âm thanh xì xèo của những thanh sắt nung đỏ nhúng vào nước lạnh, hay tiếng đe, tiếng búa nện vang nhịp nhàng hòa cùng tiếng cười nói của những người thợ. Giờ đây, ở Cái Tàu Hạ, những âm thanh quen thuộc thuở nào không còn như xưa, chỉ còn vài hộ gia đình “giữ lửa” nhịp rèn.
Ông Võ Văn Thành (76 tuổi, xã Phú Hựu), một trong những “tiền bối” của xóm lò rèn, nối nghiệp cha từ năm 16 tuổi, kể: “Tôi học tới lớp 6 rồi nghỉ học để theo cha làm nghề rèn và đến năm 16 tuổi đã thành thạo nghề. Trước đây, gia đình tôi mỗi tháng làm ra mấy ngàn lưỡi hái cắt lúa”. Nhưng kể từ khi máy cắt lúa xuất hiện, nhu cầu sử dụng lưỡi hái không còn, lò rèn của gia đình cũng không còn hưng thịnh như trước.
Trò chuyện rôm rả về nghề rèn vang danh một thời, giọng ông Thành chợt trùng xuống đầy tiếc nuối: “Gia đình theo nghề rèn từ thời ông nội truyền lại cho cha tôi. Gia đình tôi có 8 anh em thì có 6 người con trai theo nghề rèn do cha truyền lại. Trước đây, xóm lò rèn ở Cái Tàu Hạ này có khoảng 100 lò rèn. Theo thời gian, do cuộc sống ngày càng hiện đại, giờ chỉ còn vài chủ lò rèn bám trụ với nghề”.
BỀN BỈ “GIỮ LỬA”
6 giờ sáng, lò rèn của anh Lê Văn Sắt (46 tuổi, xã Mỹ An Hưng) bắt đầu nhóm lửa. Lửa than được gió từ ống bễ tiếp sức chẳng mấy chốc đã cháy bùng, nóng rực. Những thỏi sắt được vùi sâu trong than đỏ một lúc sau cũng đã đỏ hồng, mềm dịu.
Vợ chồng anh Lê Văn Sắt (xã Mỹ An Hưng) dùng búa đập liên tục vào thanh sắt để tạo hình cho sản phẩm rèn. |
Vợ chồng anh Sắt dùng búa đập liên tục. Chiếc búa gõ xuống mảnh thép đỏ bắn tung tóe những hoa lửa, dần tạo dáng cho sản phẩm rèn. Dưới âm thanh đùng đục, êm êm của từng nhát búa, thỏi sắt dần biến hình thành cây dao. Anh Sắt theo nghề rèn cùng gia đình từ khi hơn 10 tuổi đến nay, bộc bạch: “Nghề rèn cực khổ lắm! Nhưng đã trở thành nghề mưu sinh, nên vợ chồng tôi tiếp tục bám trụ”.
Gắn bó mấy chục năm với nghề rèn do cha ruột truyền lại, ông Nguyễn Văn Rong (66 tuổi, phường Cao Lãnh) vẫn cần mẫn, say mê “giữ lửa” nhịp rèn. Hằng ngày, ông vẫn luôn cần mẫn, miệt mài và để những miếng thép được tạo thành các dụng cụ sử dụng trong gia đình hoặc làm nông nghiệp.
Vén vạt áo lau vội mồ hôi trên khuôn mặt, ông Rong bộc bạch: “Người thợ rèn phải dùng một cây búa chính nặng 5 kg và một cây búa phụ nặng 3 kg để đập những thanh sắt nung, tạo hình cho sản phẩm. 2 người thợ rèn phải đập liên tục những nhát búa và từng nhát búa phải nhịp nhàng, đều đặn, chính xác. Nghề rèn đòi hỏi người thợ phải có tính cần cù và kiên nhẫn mới có sản phẩm ưng ý”.
ĐAU ĐÁU VÌ THIẾU TRUYỀN NHÂN
Nghề rèn vất vả, phải tiếp xúc với khói than, ngồi bên bếp rực lửa với tiếng đe, tiếng búa chan chát bên tai nên không phải ai cũng muốn gắn bó, nhất là người trẻ. Những người thợ rèn còn lại vẫn trung thành với việc sản xuất dụng cụ sử dụng trong gia đình và nông cụ, phải vất vả lắm mới sống được bằng nghề.
Thợ rèn Nguyễn Văn Hiền, ngụ phường Cao Lãnh đang thực hiện công đoạn mài bén cây dao. |
Người thợ rèn phải có sức dẻo dai trong môi trường khắc nghiệt với sức nóng của miếng phôi thép được nung lên hàng ngàn độ và cái lò than lúc nào cũng đỏ rực từ ống bễ. Người thợ rèn vừa có tính kiên nhẫn vừa khéo tay.
Để có một sản phẩm ra đời, từ miếng phôi thép, phải trải qua nhiều công đoạn, như: Nung đỏ, đưa lên đe đập… để dần thành hình dạng của sản phẩm, rồi mài giũa, trui, trở thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Ông Nguyễn Văn Hiền (61 tuổi, phường Cao Lãnh), theo nghề rèn được 43 năm, cho biết: “Trước khi hoàn chỉnh một sản phẩm, phải qua khâu mài, giũa để làm đẹp sản phẩm. Tất cả các khâu đều làm thủ công. Cái tài của người thợ rèn là trui cỡ nào thì vừa, không già cũng không non lửa. Ngày nay, tụi trẻ đâu ai chịu theo nghề rèn cực khổ vì môi trường làm việc nóng bức, khói, bụi”.
Gần khu vực chợ Đất Sét thuộc xã Mỹ An Hưng (tỉnh Đồng Tháp) còn tồn tại 3 lò rèn. Trong căn nhà rèn nho nhỏ, cụ Lê Văn Lắm (80 tuổi, xã Mỹ An Hưng) là một trong những cao niên còn bám trụ với nghề. Từ nhỏ, cụ Lắm đã quen tai với tiếng đe, tiếng búa của nghề rèn từ ông nội, rồi đến cha mình. Suốt tuổi thơ, cụ Lắm chứng kiến nỗi cực nhọc, gian khó của gia đình theo nghề rèn.
“Máu nghề” đã ăn sâu vào tâm thức của cụ cho đến nay vẫn cứ say mê và không thể bỏ nghề dù tuổi đã cao. Cụ Lắm đã dành gần trọn cuộc đời mình để nối nghiệp cha; bởi cụ xem nghề rèn vừa là nghề, vừa là nghiệp. Đối với cụ Lắm, ngọn lửa nghề, tình yêu nghề rèn luôn âm ỉ trong ông. “Cha tôi dạy, những ai theo nghề rèn, ngoài sức khỏe và đôi tay khéo léo, nhanh nhẹn thì cần đôi mắt tinh, đôi tai thính, sự kiên nhẫn làm nghề và phải yêu nghề, biết quý trọng nghề” - cụ Lắm chia sẻ.
Ngày nay, nhiều người thợ rèn vẫn tâm huyết, yêu nghề thủ công này và tiếc nuối về nghề “cha truyền con nối” dần mai một theo dòng chảy thời gian. Đến một lúc nào đó, tiếng đe, tiếng búa sẽ ngừng nhịp, rồi nghề rèn lụi tàn và thế hệ mai sau sẽ không còn biết đến nghề rèn nữa. Những bậc tiền bối theo nghề rèn luôn đau đáu vì thiếu người trao truyền.
Nhiều thợ rèn trăn trở, sẽ đến một lúc nào đó chấm dứt sự hiện diện của nhịp rèn truyền thống, rồi chỉ còn trong ký ức của một thời. Bà Nguyễn Đăng Hương (Lò rèn Hải 555 ở xã Tháp Mười) đau đáu: “Tôi theo nghề rèn từ năm 20 tuổi, nhưng hiện nay gia đình không có người để nối nghiệp”.
DƯƠNG ÚT
Nguồn: https://baoapbac.vn/xa-hoi/202508/giu-lua-nhip-ren-1047809/
Bình luận (0)