Quyết giữ “lộc phẩm tiến vua”, lão nông thu loại nhãn đắt gấp 10 lần (Video: Nhóm phóng viên).

Những ngày này, vùng đất Phố Hiến đã thoang thoảng hương nhãn.
Lách qua lối đất xen giữa những cành nhãn xanh um của vườn nhà, cụ ông 70 tuổi Bùi Xuân Tám dùng tay nâng nhẹ những chùm quả, mắt chăm chú quan sát.
Vỏ nhãn dày, lớp phấn trắng phủ mờ như sương mỏng, báo hiệu một mùa quả bội thu đang thành hình.
“Mùa này mới bắt đầu tạo cùi. Khoảng hơn tháng nữa thôi, những chùm nhãn này sẽ to, cùi dày, ngọt lịm. Năm nay được mùa rồi”, ông nói như vừa dự đoán, vừa gửi gắm hy vọng.
Ở thôn Nễ Châu (xã Tân Hưng, Hưng Yên), ông Bùi Xuân Tám được biết đến là người dành gần cả đời gắn bó với giống nhãn cổ.

Không chỉ đơn thuần là một nông dân trồng nhãn, ông còn là người âm thầm giữ lại những gốc nhãn truyền thống - giống nhãn từng được tiến vua trong bối cảnh nhiều hộ chuyển sang trồng giống mới cho năng suất cao hơn.
“Giữ giống cổ không dễ, vì cây cho ít quả, vỏ xấu mã, nhưng nếu mất đi thì sẽ rất khó khôi phục. Tôi trồng để không đứt gốc, cũng là để sau này con cháu còn biết thế nào là nhãn lồng Phố Hiến thật sự”, ông Tám nói.
Kết hợp giữa kinh nghiệm truyền thống và phương pháp canh tác hiện đại, ông đã cải thiện năng suất và chất lượng của giống nhãn cổ. Từ những cây tưởng chừng chỉ còn giá trị hoài niệm, vườn nhãn của ông Tám nay cho quả đều, cùi dày, vị ngọt sâu và thơm, đặc biệt giá trị gấp nhiều lần giống nhãn phổ thông trên thị trường.
Ông Bùi Xuân Tám là đại diện tiêu biểu cho lớp nông dân trồng nhãn Hưng Yên, chọn cách bảo tồn không bảo thủ, giữ gìn và phát triển bằng sự đổi mới.

Năm 1977, khi vừa tốt nghiệp phổ thông, chàng trai Bùi Xuân Tám xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Ông từng tham gia chiến đấu tại Campuchia, sau đó ra biên giới phía Bắc vào thời điểm khốc liệt nhất năm 1979.
Trở về sau chiến tranh, ông chuyển sang giảng dạy tại Trường Sĩ quan Chỉ huy Công binh, rồi về địa phương làm Bí thư chi bộ thôn Nễ Châu suốt 15 năm.
“Trong lòng tôi lúc nào cũng nghĩ về những gốc nhãn ở quê. Đi nhiều nơi, nhưng chỉ cây nhãn quê mình mới có hương vị đặc biệt đến vậy”, ông Tám chia sẻ.
Khi rời quân ngũ, ông bắt đầu thử sức với nông nghiệp. Lúc đó, nhãn chưa phải loại cây được ưa chuộng, giá trị kinh tế không cao. Ông lựa chọn giống cam Canh - loại cây ăn quả thời thượng lúc bấy giờ. Suốt hai năm liền, ông đi học trồng cam, ghi chép kỹ lưỡng các quy trình khoanh cành, cắt nước, bón phân ra hoa.
Tuy nhiên, thổ nhưỡng vùng đất Nễ Châu không phù hợp. Đất trũng, giữ nước khiến rễ cam dễ thối, cây sinh trưởng kém, quả mất màu, múi nhạt. Sau vài vụ lỗ vốn, ông chấp nhận thất bại.
Nhưng thay vì từ bỏ, ông tận dụng kiến thức học được để cải tạo đất, khắc phục độ ẩm, nâng luống, xử lý mạch nước ngầm, tạo môi trường tốt hơn cho cây ăn quả lâu năm.

Chính những thử nghiệm thất bại ấy trở thành tiền đề cho hành trình gìn giữ và nâng tầm giống nhãn cổ sau này.
“Làm nông cũng như làm lính: không được nản chí. Thất bại ở giống này, mình rút ra kinh nghiệm, áp dụng cho giống khác”, ông nói.
Sau khi vườn cải tạo xong, ông chuyển sang trồng nhãn.
Ông thầu mua toàn bộ rặng nhãn trồng dọc triền đê. Phần lớn đều là giống nhãn phổ thông, chỉ có một cây đặc biệt: quả nhỏ, cùi dày, hạt nhỏ, thơm và ngọt sắc. Giống nhãn hiếm này được giới sành ăn tìm mua để làm quà biếu.
Ông lấy hạt từ cây nhãn đó đem về ươm tại vườn, nhưng trong hàng trăm cây con chỉ có duy nhất một cây giữ được chất lượng như cây mẹ cổ thụ vài trăm năm tuổi.

Vì vậy, ông giữ lại làm giống, nhân rộng bằng phương pháp chiết cành truyền thống, rồi đặt tên “Nhãn Cùi Cổ Bùi Tám”, vừa để ghi nhớ nguồn gốc, vừa khẳng định đặc điểm chất lượng riêng.
Trong khi người người đua nhau khoe sản lượng chục tấn, trăm tấn, thì ông lặng lẽ chọn một hướng khác: Làm nông không cần nhiều, chỉ cần chất lượng.
“Thị trường hồi ấy chỉ nhìn vào số lượng, không ai quan tâm chất lượng cả. Nhà ông A, ông B chỉ khoe năm nay được chục tấn. Nhưng tính ra mỗi cân bán chưa tới 15.000 đồng.
Trong khi giống nhãn của tôi, có năm bán được tới 120.000 đồng/kg. Như vậy, một tấn nhãn của tôi đã bằng 8 tấn nhãn của người khác. Vừa nhẹ sức, vừa không đau vai, mà giá trị lại cao”, người đàn ông tóc điểm sương thẳng thắn chia sẻ.
Ông Tám nói thêm: “Giờ thị trường đâu còn cần nhiều, họ cần ngon. Ăn cái gì là phải đáng đồng tiền”.

Mùi ngai ngái len lỏi theo gió vườn. Không phải mùi phân hóa học xộc lên, mà là thứ hương nồng ẩm của cá lẹp mới tưới hòa lẫn xác ngô và đậu tương chưa tách vỏ, đang phơi dở dưới tấm bạt.
“Hôm nay mùi chưa nặng lắm đâu do mưa”, ông Tám nói rồi cúi xuống gỡ tấm bạt cho phóng viên xem kỹ.
Giữa sân, ngô và đỗ được ủ theo đúng tỷ lệ 3:1. Hạt ngô phải phơi lúc nắng đứng bóng mới giòn để nghiền. Đỗ tương mua loại không dính dầu, nghiền xong thì trộn với lân, rắc vôi, ủ đúng 6 tháng mới cho ra thứ phân ông gọi là “bậc thầy của mọi loại phân”.
Cá lẹp được nuôi từ ao nhà, tát xong để riêng phần nhỏ lại ngâm làm phân, phối trộn thêm thành phần hữu cơ cao cấp.
Chọn con đường khác với mọi người từ giống cây cho đến cách chăm sóc, thành công hiện tại có được của lão nông đương nhiên không hề dễ dàng.

Những năm đầu giữ lại giống nhãn cổ, ông Tám chỉ trồng theo bản năng và ký ức. Vườn chỉ vài chục cây, quả không đều, năng suất thấp, bị thương lái ép giá. Nhưng ông kiên quyết không phá bỏ. “Tôi nghĩ, nếu cây từng được chọn để tiến vua, thì chắc chắn nó có lý do. Việc của mình là tìm lại giá trị thật của nó”, ông nói.
Người cựu binh cũng bắt đầu chuyển đổi cách canh tác khi cảm thấy thứ quả gắn bó cả đời mình không còn giữ được vị ngọt xưa. Nhãn ăn nhạt, vỏ nứt khi mưa xuống, chất lượng trồi sụt không kiểm soát.
Hồi mới làm, mùi phân nặng đến mức vợ con không dám đứng gần. “Người ta thì cho ăn phân sạch sẽ, còn mình bày ra cái đống đỗ, ngô, cá lẹp lên men, thối um cả sân”, ông Tám nhớ lại.
Để giảm mùi, ông ngâm phân lân, đảo kỹ, rồi dùng túi bóng bịt kín miệng ủ, lấy bùn trát chân, đắp đất xung quanh. Phân được ủ đúng 6 tháng. Sau này, ông mua thuốc vi sinh về khử mùi, đảo đi đảo lại nhiều lần cho mùi chỉ còn 3 phần.
Ông cười: “Hồi ấy, người ta chỉ dùng phân hóa học. NPK Đồng Châu, Việt Nhật. Hữu cơ chỉ là phân chuồng thôi, chưa ai nghĩ tới đậu, ngô”.
Với phân bón, nhiều người sợ hữu cơ vì cho rằng đắt. Ông Tám tính ngược lại.
“Một cây nhãn chỉ ăn khoảng 2kg phân tôi tự phối, giá tầm 52.000 đồng. Trong khi nếu dùng NPK Việt Nhật, giá 18.000 đồng/kg nhưng phải cho ăn 3kg mới đủ, mà quả lại không ngon”, người nông dân phân tích.

Ông tự mày mò, rồi lặn lội đến từng buổi chuyển giao kỹ thuật, từ cấp xã đến cấp bộ. Lớp nào tổ chức là đi, không bỏ một buổi. Khác với nhiều người “đi học cho có mặt”, ông mang sổ bút, ghi chép từng chi tiết. “Cái gì hay thì ghi, ghi để nhớ mà làm”, ông nói.
Học lý thuyết chưa đủ, ông thực hành bằng cách đi khảo nghiệm thực tế. Khoảng nửa tháng trước vụ thu hoạch, khi vườn bắt đầu định quả, người nông dân này đội mũ ra đồng giữa trưa, lần lượt xem từng vườn một. Vườn nào đẹp, ông ghi lại: tên chủ, cách tỉa, phân bón, thời điểm xử lý. Vườn nào xấu, cũng ghi: vì sao lá sạm, vì sao quả nhỏ, chủ có chịu khó không, có áp dụng kỹ thuật gì không?
Có thời gian, ông thường xuyên ra vườn lúc nửa đêm, dùng đèn pin soi từng gốc nhãn, lắng nghe tiếng “cây thở” cảm nhận độ ẩm, tiếng lá, mùi gốc rễ để đánh giá sức khỏe từng cây.
“Đó là cách tôi kiểm tra sự thay đổi của vườn theo thời gian. Cây không biết nói, nhưng nếu mình đủ kiên nhẫn, sẽ hiểu được nó cần gì”, ông cười.
Thời gian đầu là gian nan nhất. Có năm, cây cho quả, có cây không. Không ít lần ông ngờ vực chính mình: “Giống có thuần không? Đất có hợp? Trồng cây theo hướng mới không biết có thành công hay không?”, ông cười nhớ lại.

Sau những nỗ lực không ngừng nghỉ, cây không phụ lòng người. Ông Bùi Xuân Tám đã tìm ra công thức chuẩn để nhân rộng và phát triển giống cây nhãn quý. Đó là sự kết hợp của kinh nghiệm đồng ruộng và khoa học bài bản.
Ông quả quyết: “Làm cái gì cũng cần có kinh nghiệm nhưng mà khoa học mới là then chốt. Kinh nghiệm hỗ trợ cho khoa học mới là đỉnh cao”.
Lời dạy truyền đời của cha ông được người nông dân vận dụng: “Nhãn cành na, dâu da cành bồng”. Tức là để nhãn ngon thì phải ưu tiên cành na - cành chính, khỏe. Tỉ lệ lý tưởng là giữ 3 phần cành na, chỉ để 1 phần cành ngọn.
“Cành ngọn nhiều quá thành cái ô che nắng, quả bên trong không có ánh sáng, ăn nhạt lắm. Phải biết chọn lọc thì cây mới phát triển đều”, ông Tám nói.

Nhưng ông không dừng lại ở kinh nghiệm. Người nông dân ấy bắt đầu tìm hiểu và ứng dụng chế phẩm sinh học nano bạc - một công nghệ mới được các viện nghiên cứu khuyến nghị thay thế thuốc hóa học.
“Sau khi quả hình thành, tôi phun định kỳ 20 ngày đến một tháng. Chế phẩm tạo thành lớp màng sinh học bao quanh chùm quả, không cho sâu bệnh xâm nhập. Nhãn sáng đẹp, không cần một giọt thuốc trừ sâu”, ông Tám giải thích.
Ông Tám từng thử nghiệm: một cây bón hoàn toàn vô cơ, một cây kết hợp, một cây chỉ hữu cơ. Kết quả, cây ăn phân hữu cơ để quả lâu hơn, vị đậm, vỏ dày, không nứt mưa.
“Khách đến ăn là biết ngay cây nào ăn hữu cơ. Quả cắn vào có hương, có hậu. Vô cơ ăn chua nhạt, nhanh thối. Từ đó, tôi chỉ trung thành với phân hữu cơ”, ông Tám chia sẻ.

Theo chân ông Tám thăm “gia tài” được ông chăm chút suốt hơn ba thập kỷ, sẽ thấy vạt nhãn trải dài dọc khu vườn đang vào kỳ định hình quả. Tán lá xanh mướt, gió lùa qua nghe xào xạc như tiếng thở đều đặn của đất.
Dưới những tán cây rộng, từng chùm nhãn đậu dày, quả tròn. Những cành sai quả được ông buộc vải cố định vào khung tre để khỏi gãy.
Vừa đi, ông vừa rút điện thoại khoe một tấm ảnh đã cũ: “Năm ngoái có chùm nặng 3,7kg. Tôi phải buộc thêm dây, không thì gãy cả cành”, ông Tám kể giọng pha chút tự hào.
Tháng 6/2022, tại Hội thi “Cây nhãn đầu dòng” do UBND tỉnh Hưng Yên tổ chức, cây nhãn cùi cổ nhà ông được chọn là một trong những cây đầu dòng tiêu biểu.
Quả đạt chất lượng đồng đều, khả năng nhân giống cao, sinh trưởng ổn định.
Mỗi mùa quả, nhãn cổ của ông Tám được đặt mua hết ngay từ khi còn xanh. Giá bán tại vườn ổn định ở mức 80.000-120.000 đồng/kg, cao gấp nhiều lần giống thường. “Khách đến vườn, ăn quả là nhớ mãi. Họ ăn xong gọi cả người nhà tới đặt thêm”, ông kể.

Hành trình gìn giữ và phát triển đặc sản tiến vua không phải là chuyến độc hành. Con gái ông Tám là chị Bùi Thị Hường đã quyết định nối nghề cha. Cha con cùng nhau phát triển Hợp tác xã Nhãn lồng Phố Hiến.
Hợp tác xã định hướng phát triển sản phẩm nhãn cao cấp chuyên để làm quà biếu, tặng.
Thời điểm ra mắt giữa năm 2022 mới chỉ có 9 hộ tham gia. Sau một năm, con số tăng lên 28 hộ. Giống nhãn đặc sản được nhân rộng, 95% diện tích nhà ông chuyển sang giống cùi cổ, nhiều hộ cùng làm theo.
Không chỉ làm nông, ông còn tổ chức sản xuất. Là bí thư chi bộ của Hợp tác xã, ông đưa ra nguyên tắc rõ ràng: “Không làm đúng kỹ thuật thì hợp tác xã sẽ không bao tiêu”. Với ông, sự chỉn chu không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà là trách nhiệm với vùng đất đã nuôi sống cả làng bao thế hệ.
Theo ông Nguyễn Văn Tráng – Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên là vùng trồng nhãn trọng điểm của miền Bắc với diện tích khoảng 5.000ha, sản lượng nhãn hàng năm đạt từ 40.000-50.000 tấn, nhãn lồng Hưng Yên không phải là một giống nhãn riêng biệt, mà là một thương hiệu bao gồm 45 giống nhãn quý đã được chọn lọc, bảo tồn và sản xuất. Trong đó, có 2 giống đặc sản là nhãn đường phèn và nhãn cùi cổ.
Trước đây, hầu hết diện tích nhãn của tỉnh là các vườn nhãn tạp (bao gồm nhiều loại giống) do người dân chủ yếu sử dụng các giống tạp, trồng bằng hạt. Từ sau năm 1998, trải qua quá trình phát triển sản xuất, tỉnh đã chọn lọc được một số giống nhãn có năng suất, chất lượng tốt để đưa vào sản xuất.
Cũng trong giai đoạn này, việc cải tiến phương pháp nhân giống từ sử dụng cây giống trồng từ hạt bằng các phương pháp: chiết cành, ghép mắt đã đóng vai trò quan trọng trong việc cải tạo những diện tích nhãn tạp của tỉnh cũng như đảm bảo chủ động nguồn giống tốt đáp ứng nhu cầu chuyển đổi từ trồng lúa hoặc ngô, đỗ (trên đất bãi) sang trồng nhãn.
Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/quyet-giu-loc-pham-tien-vua-lao-nong-thu-loai-nhan-dat-gap-10-lan-20250725184507362.htm
Bình luận (0)