Trái ngọt của anh nông dân “khùng” bắt nhãn ăn cá, uống dịch chuối.


Năm 2008, tiếng chuông điện thoại từ quê nhà xé tan những ngày làm việc của anh Bùi Xuân Sử (SN1975, quê Hưng Yên) tại Hàn Quốc. Đầu dây bên kia báo tin: Bố bị bệnh nặng.
Không chần chừ, Sử lập tức đặt vé trở về Việt Nam. Ở tuổi 25, sau nhiều năm làm việc nơi xứ người, chắt chiu từng khoản chi tiêu, Sử tích lũy được một khoản tiền. Số tiền từng được xem là vốn liếng cho những dự định phía trước.
Nhưng mọi kế hoạch lập tức gác lại khi nghe tin bố bị bệnh.
“Lúc đó chỉ nghĩ làm sao về càng nhanh càng tốt để được nhìn thấy bố, còn bao nhiêu tiền cũng không quan trọng”, anh Sử nhớ lại.
Hạ cánh xuống sân bay Nội Bài vào một ngày hè nóng như đổ lửa, Sử về kịp, nhưng chỉ để chứng kiến những ngày tháng cuối cùng của đấng sinh thành. Sau gần 1 năm, bố qua đời. Nỗi đau chưa nguôi ngoai, mẹ cũng theo gót.
Hai mất mát liên tiếp khiến chàng trai trẻ khi ấy nhận ra có tiền cũng không giữ được người thân.
Sau biến cố, Sử quyết định về hẳn quê hương Phố Hiến (Hưng Yên) - vùng đất nhãn lồng trứ danh, đã nuôi 5 đời gia đình anh bằng cây nhãn. Bây giờ đến lượt Sử tiếp quản khu vườn.
Thời điểm đó, cả khu vực trồng nhãn đã quen với mùi thuốc trừ sâu, hóa chất nồng nặc theo từng đợt phun. Cây nhãn dù năng suất nhưng giá bấp bênh, ruộng đất ngày càng bạc màu. Những mùa hoa trái đổi lại là những đợt hít hóa chất luân phiên giữa các hộ.
“Hôm nay nhà tôi phun thì nhà hàng xóm ngửi. Ngày mai họ phun, tôi lại hít. Cả làng không ai tránh được. Tôi tự hỏi: tại sao mình phải sống như vậy?”, anh nhớ lại.

Anh quyết tâm phải là người phá vỡ vòng lặp đã tồn tại qua nhiều thế hệ trên chính mảnh đất quê hương mình.
Nếu cây nhãn từng làm rạng danh Phố Hiến, thì tại sao không thể tái sinh nó bằng con đường sạch hơn, bền vững hơn?
Chính nỗi trăn trở về sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng đã thôi thúc Sử phải tìm một con đường khác.

Năm 2018, Sử quyết định chuyển đổi 100% diện tích nhãn sang mô hình hữu cơ. Bạn bè lắc đầu, vợ can ngăn, nhiều người cho rằng anh liều lĩnh.
“Nhiều người ái ngại là liều, mạo hiểm, hiểu biết gì về hữu cơ đâu mà làm”, anh Sử nhớ lại.
Quả thực như vậy, nông nghiệp hữu cơ không mỹ miều như cái tên của nó. Không còn sự hỗ trợ của hóa chất “cứ hòa vào nước rồi phun”, giấc mơ của anh nông dân bắt đầu bằng mùi thum thủm của cá mè ủ men vi sinh, hòa cùng vị cay nồng của hỗn hợp gừng, tỏi, ớt ngâm rượu xua sâu bệnh.
Sử còn phải diệt bọ xít bằng que chuyên dụng - công việc nguy hiểm khiến anh phải gọi taxi lên bệnh viện đến 2 lần.
Những câu hỏi đầy hoài nghi cứ thế bủa vây. Chính những người thân trong gia đình cũng khó hiểu khi thấy Sử vất vả: “Sao lại phải khổ như thế, làm như bình thường là được rồi”.
“Cây nhãn này có lúc xơ xác, cảm giác nó gần như không có sức sống”, anh Sử mô tả với giọng xót xa. Quen với chất hóa học lại bị chuyển đổi 180 độ, cây nhanh chóng bị suy kiệt trầm trọng.
Năm 2020 có lẽ là khoảng thời gian đen tối nhất trong hành trình trồng nhãn của Sử.
Anh đếm từng ngày chờ đợi sự hồi phục của cây với hy vọng mong manh: Cây cũng đang cai nghiện, bỏ dở giờ thì mất trắng công mất, đất cũng hỏng.
Dù tranh cãi với mọi người về quyết định của mình, nhưng trong lòng anh cũng nóng ruột và thậm chí từng bị dao động. Câu hỏi “Liệu mình có nên tiếp tục với hoài bão nữa hay không?”, cứ đeo đẳng trong đầu anh mỗi ngày.
Sử tâm sự: “Cái cây không phải là sắt, không phải là đá. Cây nó cũng có tâm hồn, nó cũng có sự sống của nó. Trong 3 năm mà bộ rễ không phát triển thì càng cố gắng bao nhiêu, càng làm tổn thương cây bấy nhiêu”.

Người nông dân miệt mài với hy vọng mong manh, chăm sóc từng cây nhãn như chăm con mọn. Anh xới đất, trồng đậu lạc phủ xanh rồi cày vùi, tỉ mẩn ghi chép từng thay đổi nhỏ.
“Những đêm không ngủ, tôi ra vườn ngồi bên gốc nhãn, thậm chí đêm thì mong đến sáng để ra vườn”, anh Sử chia sẻ.
Đó là nhịp sống của một người đàn ông đã gắn kết hoàn toàn với số phận của vườn cây.
Những năm đầu, nhãn tuy có ra quả nhưng năng suất sụt giảm nhanh chóng. Chi phí đội gấp ba lần doanh thu. Trung bình một sào chỉ cho 4-5 tạ, giảm gần một nửa so với thời kỳ thâm canh. Những quả nhãn đầu tiên có mẫu mã xấu, không đạt tiêu chuẩn thị trường, trong khi 80% khách hàng kỳ vọng sản phẩm phải đẹp mắt.
“Nhãn còn không bán được chứ đừng nói đến bán được với giá cao”, anh thở dài nhớ lại những ngày tháng ấy. Giá bán bấp bênh, thậm chí không mong đợi giá cao, chỉ cần bán được là may mắn.

Một buổi sáng tháng 10/2022, như mọi khi, anh Sử ra vườn nhãn từ sớm nhưng hôm nay có điều gì đó rất khác. Trên những tán cây trơ trọi bất ngờ đâm lên nhiều chồi xanh.
“Sống rồi! Sống rồi”, Sử cứ thế một mình cười lớn trong vườn nhãn. Buổi sáng hôm đó, không chỉ có những cây nhãn tái sinh, mà có cả hy vọng về nông sản không hóa chất của anh nông dân Phố Hiến.
Cuối cùng, sau 3 năm kiên trì chuyển đổi, vườn nhãn của anh Sử bắt đầu có những tín hiệu đầu tiên cho thấy sự sống quay trở lại. Lá xanh hơn, tán dày, bộ rễ bắt đầu bám đất. Quả đậu đều, cùi dày, ngọt dần theo từng đợt kiểm tra.
“Lúc đó, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Cây sống, nghĩa là mình đã đi đúng hướng”, anh nói.
Người nông dân cần mẫn chăm sóc tỉ mỉ từng chiếc lá, từng cành non. Đôi tay chai sạn cầm chiếc kéo cắt tỉa, loại bỏ những cành khô, những lá già, tạo không gian cho sự sống mới. Những cây nhãn này giờ đây đã khỏe mạnh, tươi tốt, hoàn toàn khác biệt so với dáng vẻ “xơ xác” trước kia.
Đến năm 2023, khi tỉnh hỗ trợ phân tích hơn 20 mẫu từ các hợp tác xã và nhà vườn, cuộc điện thoại từ đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (cũ) đã thay đổi tất cả: “Năm nay chúc mừng anh! Vườn nhãn anh đã đạt trên 800 bộ tiêu chí, không vấp một tiêu chí nào, duy nhất mỗi mẫu phân tích vườn nhãn của anh là đạt tiêu chuẩn như vậy”.
Giọt nước mắt hạnh phúc lăn trên má người đàn ông 50 tuổi khi đầu dây bên kia còn chưa gác máy.
“Thật sự xúc động vì nghĩ rằng bao nhiêu mồ hôi, công sức bỏ ra đến giờ đã hái quả ngọt”, anh nông dân bồi hồi chia sẻ.

Năm 2020, những nỗ lực không mỏi cuối cùng cũng được đền đáp. Vườn nhãn hữu cơ đầu tiên của Hưng Yên do anh Sử canh tác được cấp hai mã vùng trồng xuất khẩu – một cho thị trường Mỹ, một cho Australia.
Những quả nhãn Nễ Châu vỏ vàng sậm, cùi dày giòn, hạt nhỏ, vị ngọt thanh nay khoác lên mình tem nhãn "Organic - Anh Sử".
Từ đó đến nay, vườn nhãn không chỉ cho năng suất cao mà còn có chất lượng vượt trội.
“Sản lượng của nhãn trồng theo mô hình hữu cơ bây giờ không thua gì trồng theo cách thông thường. Những cây nhãn được trồng theo mô hình hữu cơ rất khỏe, đâm ra ít bị mất mùa hay gãy đổ khi gặp bão”, anh Sử tự hào nói.
Về mặt kinh tế, nhãn hữu cơ có giá ít nhất là gấp đôi hoặc gấp ba so với nhãn canh tác theo cách thông thường. Nhãn phổ thông giá 20.000 đồng/kg thì nhãn của tôi có giá 50.000-60.000 đồng/kg.
Anh Sử tự hào: “Bây giờ thì có thể khẳng định cây nhãn là cây có thể nói không với thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học. Mặc dù, lá cây có vẻ ngoài xấu hơn so với cây được bón phân hóa học, nhưng lá rất dày, cực kỳ ít sâu bệnh, nấm bệnh và có sức chống chịu tốt trước mưa bão. Thực tế, nhãn trồng theo mô hình hữu cơ hiện tại trên thị trường cung không đủ cầu”.

Diện tích vườn nhãn hữu cơ của anh Sử là 4.300m2 với 180 gốc nhãn, tuổi đời trung bình 25 năm. Sản phẩm được cung cấp cho các hệ thống siêu thị lớn, hãng hàng không Vietnam Airlines và Bamboo Airways, cùng với các cửa hàng thực phẩm tiện ích và khách hàng đặt trực tiếp.
Khi đoàn công tác của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ) đến thăm vườn và hỏi về việc nhân rộng mô hình, anh Sử thẳng thắn trả lời:
“Tiêu chí của tôi là chọn con người chứ không chọn vườn. Tức là nếu mà vườn đẹp mà con người lòng không đẹp thì sẽ thất bại. Còn nếu con người lòng đẹp, có nhân hậu thì sẽ tạo ra cái vườn đẹp.
Hướng làm nông nghiệp hữu cơ này không khó, ai cũng làm được. Nhưng quan trọng là tính kiên trì và sự trung thực cũng như sự minh bạch trong sản xuất”.

Quan trọng hơn cả, mô hình của anh Sử đã được nhân rộng. Không giữ kiến thức cho riêng mình, khi vườn nhà ổn định, anh bắt đầu vận động xã viên HTX Nhãn lồng Nễ Châu (có 36 hộ trồng nhãn với tổng diện tích 18ha) cùng chuyển đổi. Anh chia sẻ nhật ký chăm sóc, hướng dẫn pha chế phẩm, tổ chức tập huấn ngay tại vườn.
“Sau thành công bước đầu, tôi tiếp tục trở thành người “truyền nghề” cho 3-4 hộ nông dân khác, đều là những người trung niên có tư duy cầu thị, dám thay đổi, mồm nói tay làm”, anh Sử chia sẻ.
Điểm quan trọng nhất mà anh Sử nhấn mạnh là việc đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
“Với bà con nông dân, họ quan trọng nhất là đầu ra, mà bây giờ đầu ra mình đã lo”, anh Sử chia sẻ.
Anh Sử còn có cách tiếp cận độc đáo trong việc định hướng thị trường. Thay vì ưu tiên những trái nhãn có vẻ ngoài đẹp, anh lại mua những trái nhãn xấu - những trái chín tự nhiên, chín cùi, với giá cao hơn. Mục đích là hướng khách hàng hiểu rằng sản phẩm tự nhiên không cần phải có vẻ ngoài hoàn hảo.
Để thúc đẩy việc nhân rộng mô hình, anh Sử và hợp tác xã thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, họp mặt để chia sẻ kinh nghiệm. Đây không chỉ là nơi truyền đạt kỹ thuật mà còn là diễn đàn để nông dân học hỏi lẫn nhau thông qua việc so sánh kết quả kinh doanh.
Anh Sử cũng đưa ra những “bài toán” cụ thể để thuyết phục bà con. Ví dụ, một cân phân NPK có giá 18.000 đồng nhưng chất lượng không rõ ràng, trong khi một cân cá (8.000 đồng) cộng với một cân ngô (8.000 đồng) và chế phẩm sinh học vẫn chỉ bằng giá một cân NPK nhưng chất lượng thật hơn và không gây chai cứng đất.
Để hỗ trợ bà con, anh Sử đã mua máy vặt cỏ cho hợp tác xã mượn thay vì sử dụng thuốc diệt cỏ, đồng thời cung cấp các chế phẩm sinh học để ủ phân hữu cơ từ ngô, đỗ, cá.

Anh Sử có kế hoạch mở rộng mô hình thông qua việc thuê lại đất của các hộ nông dân với điều kiện các thửa đất phải liền kề. Theo đó, nông dân sẽ nhận được khoản tiền 5-7 triệu đồng/sào (tương đương với thu nhập ròng từ việc trồng nhãn) mà không cần phải chăm sóc. Nông dân có thể tiếp tục làm công trên chính mảnh đất của mình và được trả lại đất khi muốn.
Đầu xuân 2025, ông chủ vườn nhãn hữu cơ chở về 4,5 tạ cá mè tươi. Cá được băm nhỏ, trộn với men vi sinh và mật rỉ đường rồi ủ kín trong chum sành, chôn nửa thân xuống đất dưới tán nhãn để giữ nhiệt ổn định.
Ba tháng sau, thứ nước ủ lên men có màu vàng nâu sánh đặc, vừa có mùi hăng đặc trưng, vừa đậm dinh dưỡng.
Phân bón đặc biệt này được pha loãng tưới gốc, phần nước trong đem phun lên lá, giúp quả chắc vỏ, đều mã, thơm hơn và ít sâu bệnh. Không chỉ thay thế phân hóa học, quy trình còn tận dụng được phụ phẩm địa phương, giảm đến 30% chi phí canh tác, đồng thời cải tạo đất rõ rệt – đất tơi hơn, giàu mùn hơn, rễ ăn sâu hơn.
Vụ mùa 2025, vườn nhãn của anh dự kiến cho thu hoạch hơn 10 tấn quả. Giá đầu vụ ở mức 40.000 đồng/kg được các chuỗi bán lẻ chủ động đặt mua trọn gói từ sớm, nhờ sự ổn định về chất lượng và niềm tin vào mô hình nông nghiệp hữu cơ mà anh kiên trì theo đuổi.
Đứng giữa vườn nhãn trĩu quả, Sử xoa nhẹ lá cây sau khi vừa phun lớp “nước cá” tự ủ, cười hào sảng: “Khoản lời lớn nhất là mình được sống tử tế với đất”.
Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/trai-ngot-cua-anh-nong-dan-khung-bat-nhan-an-ca-uong-dich-chuoi-20250725180918110.htm
Bình luận (0)