Lung linh trong hoài niệm
Những cậu bé, cô bé tóc còn để chỏm vào những năm 80 của thế kỷ trước, hẳn vẫn còn nhớ cảm giác: cả năm thiếu đói nhưng đến Tết kiểu gì cũng đầy đủ những “món” thuần Việt: thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, pháo Tết… Thời bao cấp còn rơi rớt lại bao nỗi nhọc nhằn nhưng sao mà vui đến thế. Và dù là nhà nghèo thì bên cạnh cành đào phai gầy nhỏ, mọi người cũng không quên mua những bức tranh vui nhộn làm bằng thứ giấy mộc mạc để treo.
|
Đình làng Đông Hồ. |
Những bức họa gắn với em bé cưỡi gà, em bé thổi sáo chăn trâu, mẹ con đàn lợn, mẹ con đàn gà, đám cưới chuột, đấu vật… Dù chẳng hiểu gì về nghệ thuật và văn hóa nhưng những hình ảnh ngộ nghĩnh, cùng những màu sắc thôn dã đó cũng đủ làm lũ nhóc thích mê. Lớn lên một chút, được học hành, mới hiểu đấy là những bức tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Tranh tuy đơn giản, nhưng ẩn chứa thẩm mỹ, sự tài hoa, sáng tạo của cha ông.
Những người nông dân lúc nông nhàn, với đôi bàn tay khéo léo, trí tưởng tượng bay bổng, đã thể hiện những mong ước của người trong làng, trong xóm. Vẻ đẹp sinh ra từ đời sống. Thật cụ thể, phóng khoáng và tự nhiên như cơm ăn và nước uống hằng ngày, những con người lam lũ, những con vật bình dị, những cảnh đời buồn vui chốn thôn dã, là đối tượng quen thuộc của tranh Đông Hồ. Và cứ thế, thế hệ này truyền cho thế hệ khác, nghề làm tranh, sáng tác tranh thành truyền thống của làng.
Chắt lọc từ thiên hoang sơ, chất liệu và màu sắc tạo nên tranh đẹp ở sự chân quê, độc đáo và thuần Việt. Giấy dó làm tranh làm từ vỏ cây dó, dai và thấm mực, được phết lên một lớp điệp - tán nhỏ từ vỏ sò, tạo nên những làn chạy ngang phồng xốp, óng ánh trên nền tranh. Hoa hòe, củ nghệ, hạt dành dành chế ra màu vàng ấm. Gỗ vang băm nhỏ sắc kỹ, hoặc hoa hiên chế ra màu đỏ son. Và lá chàm ngâm vôi, gỉ đồng sẽ chế ra màu xanh, tím…
Đặc biệt nhất, màu đen chế từ lá tre già đốt lấy than, hoặc tro rơm nếp, ngâm lâu, lọc kỹ, lên chất thật đậm mà êm dịu như mun. Còn nhiều những công đoạn thủ công khác của việc làm tranh thể hiện sự sáng tạo, khéo léo của những người nghệ sĩ dân gian. Và giống như nụ cười thôn nữ giữa đồng xanh, tranh Đông Hồ giản dị, duyên thầm, gây thương, gây nhớ cho người thưởng thức.
Cũ mộc mà tinh khôi
Đời sống công nghiệp và sự phát triển của kinh tế thị trường, những người yêu tranh Đông Hồ cũng đang dần thưa vắng, kể cả thế hệ 7x - 8x. Rồi một ngày, ký ức được đánh thức, theo câu thơ của thi sĩ Hoàng Cầm “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” xuôi về với sự mộc, cũ mà tinh khôi.
Làng tranh Đông Hồ xứ Kinh Bắc (Bắc Ninh), ngày nay không còn nhiều những dòng họ làm tranh chỉ còn vài hộ tâm huyết mà theo nghề cũ còn đa số đã chuyển nghề làm giấy, làm hàng mã để mưu sinh. Tuy vậy, không gian sinh hoạt chung là đình Đông Hồ vẫn còn nguyên vẹn với nét đẹp cổ kính. Bên cạnh đình còn xây thêm Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ, khang trang và hiện đại.
Trong ngôi nhà cổ của gia đình nữ nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh nghe bà tỉ mỉ, giảng giải từng công đoạn sáng tác tranh mới thấy hết nét giản dị tưởng như đơn giản của nghề làm tranh. Để có những tác phẩm tranh Đông Hồ phải cần những bản khắc gỗ. Qua bàn tay tài hoa và khiếu thẩm mỹ, thế giới quan của người nghệ nhân lâu năm, đã họa, khắc lên những bản khắc mang hồn cốt, ước mong của làng, của xóm.
Đa dạng về đề tài, tranh Đông Hồ rất đời thường, sống động gắn với đời sống nghìn năm của người Việt: hình tượng các con vật gắn bó đồng ruộng, trâu, lợn, cá, chuột, đàn gà…; các sinh hoạt thường ngày đánh vật, đánh đu, đánh ghen, tiến sĩ vinh quy bái tổ…
|
Nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh giới thiệu với du khách công đoạn sản xuất tranh. |
Nghệ nhân Oanh hướng dẫn khách tỉ mỉ: Mỗi bản khắc gỗ sẽ đảm nhiệm một mảng màu sắc trong từng bức tranh. Có bao nhiêu màu trong một bức tranh là có bấy nhiêu bản khắc. Bản khắc gỗ được làm từ những loại gỗ đặc biệt như gỗ thị, gỗ mỡ hay gỗ thực mực. Những loại gỗ này thớ mịn và mềm, không cong vênh, dẻo dai, bền và có độ thấm màu… khi in tranh sẽ đượm màu, sắc nét.
Sáng tác mẫu là khâu đầu tiên và cũng quan trọng nhất. Công đoạn này không phải là các nghệ nhân lâu năm có bàn tay tài hoa và khiếu thẩm mỹ mới có thể làm được. Trong nhà nghệ nhân Oanh vẫn còn hàng trăm bản khắc gỗ cổ từ các thế hệ trước truyền lại. Và gia đình luôn coi đó là vật gia bảo, lưu giữ cho các thế hệ mai sau.
Làng tranh ngày nay chủ yếu phục vụ khách du lịch. Du khách tìm về đây, cùng tham quan, trải nghiệm những nét văn hóa những công đoạn sản xuất tranh và mua tranh làm kỷ niệm. Điều đó cũng đã phần nào động viên và nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nghề của số ít các nghệ nhân.
Trường tồn cùng dân tộc
Dù gần gũi nhưng mỗi một bức tranh Đông Hồ lại thường đa nghĩa và mang lại những cảm nhận, cảm xúc khác nhau từ người xem. Đây chính là yếu tố đã làm nên sức sống bền bỉ của tranh trong lòng công chúng và trong tư duy sáng tạo của nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam.
Họa sĩ Nguyễn Gia Bảy, Chi hội trưởng Chi hội Mỹ thuật tỉnh Thái Nguyên - người từng nghiên cứu dòng tranh dân gian và tranh Đông Hồ khẳng định: Tranh dân gian và tranh Đông Hồ tuy giản dị về hình thức, với cách tạo hình phẳng, bố cục đăng đối, tiết chế đường nét và bảng màu nguyên sắc giàu sức biểu cảm, nhưng lại giàu giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Trong giới mỹ thuật nhiều người chịu ảnh hưởng từ tranh Đông Hồ. Với mỹ thuật đương đại, tranh dân gian không chỉ là tư liệu văn hóa mà đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho sáng tạo, là nơi để họa sĩ tìm về cội nguồn thẩm mỹ dân tộc, đồng thời chuyển hóa giá trị truyền thống vào ngôn ngữ tạo hình hiện đại. Những họa sĩ như Nguyễn Tư Nghiêm với tranh sơn mài cách điệu hình tượng dân gian, Lê Chí Dũng với các bố cục giàu tính biểu tượng và tiết tấu dân tộc, hay Trần Khánh Chương với sự tiếp cận dân gian bằng lối vẽ phóng khoáng và trang trí… đều là những gương mặt tiêu biểu cho việc khai thác giá trị tạo hình từ tranh dân gian để làm mới ngôn ngữ nghệ thuật cá nhân.
Về sự độc đáo của tranh, họa sĩ Lê Trọng Lân, Nguyên Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật Hội mỹ thuật Việt Nam cho biết: Nghề làm tranh dân gian Việt Nam, tranh Đông Hồ là nghề của một tập thể, từng gia đình đến phường tranh theo truyền thống cổ. Từ đây trí óc, tâm hồn, con mắt, bàn tay của những người thợ vẽ in tranh cũng giống như bàn tay khối óc tâm hồn của những người thợ tạo nên những tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp các ngôi đình, chùa làng Việt, chỉ khác nhau với cách thể hiện.
|
Không gian trưng bày hiện vật trong Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ, để du khách có thể trải nghiệm và tìm hiểu quy trình làm tranh. |
Những nghệ nhân làm tranh Đông Hồ là những người độc nhất vô nhị trên thế giới thay vì dao khắc, họ dùng tràng đục để khắc ván in tranh. Họ không chỉ là họa sĩ mà còn là nhà điêu khắc tài năng. Vẻ đẹp trên hết của tranh Đông Hồ là hình ảnh và màu sắc. Hình ảnh trong tranh rất đời thường - chú bé đàn gà, đàn lợn, trâu, bò, đám cưới chuột, thầy đồ cóc, hái dừa, đánh ghen... được chọn lọc, vẽ cách điệu, thật đơn giản, thân thuộc, điển hình pha chút hài ước, khuyên dạy...
Thị hiếu màu sắc của nghệ sĩ làm tranh Đông Hồ là điển hình bậc nhất cho triết lý, tình cảm, tín ngưỡng tôn giáo của người dân Việt Nam đối với màu sắc. Người nông dân gắn bó với thiên nhiên, với những màu đất non trầm dịu bao nhiêu thì trong những ngày hội ngày tết lại thiên về những màu sắc vui tươi rạng rỡ bấy nhiêu - trên những mâm ngũ quả, câu đối, cờ lọng, y phục…
Và không chỉ đẹp, cầm tờ tranh trên tay khi mới in xong, sẽ cảm được ngay chất hương đồng cỏ nội ở vùng nông nghiệp nhiệt đới. Mùi hồ nếp, hòa lẫn vị nồng của điệp, của dó, hăng hắc của chàm, ngon ngọt của rơm... đó là sản phẩm của đất trời. Và phải chăng đây cũng là ân huệ của thiên nhiên ban cho những nghệ nhân tài hoa, để họ có cơ hội sáng tạo ra những tờ tranh nhỏ bé mong manh mà chứa đựng nhiều điều kỳ diệu - ấm áp và bao la hồn dân tộc.
Nguồn: https://baothainguyen.vn/van-nghe-thai-nguyen/202508/tranh-dong-ho-cu-moc-ma-tinh-khoi-b7d3d38/
Bình luận (0)