Vai trò của người làm báo trong đồng hành cùng doanh nghiệp phát triển công nghiệp văn hóa
Thứ nhất, lan tỏa thông tin, quảng bá giá trị văn hóa. Người làm báo không chỉ là người truyền tải thông tin, mà còn là người kể chuyện, lưu giữ, tôn vinh và lan tỏa những giá trị văn hóa mà các doanh nghiệp đang nỗ lực đóng góp vào quá trình phát triển CNVH. Đội ngũ này có vai trò quan trọng trong giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, thương hiệu gắn với sản phẩm văn hóa tới công chúng. Thông qua các tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, người làm báo giúp công chúng biết đến sản phẩm, dịch vụ, hiểu được giá trị văn hóa, ý nghĩa tinh thần của sản phẩm văn hóa, giúp sản phẩm, dịch vụ văn hóa vượt ra khỏi phạm vi tiêu dùng thuần túy, trở thành một phần của đời sống tinh thần xã hội. Đồng thời, người làm báo đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc xây dựng, quảng bá hình ảnh, uy tín của sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Một sản phẩm văn hóa thành công không chỉ dựa trên chất lượng nội dung hay hình thức, mà còn cần được xã hội đón nhận, tin tưởng về giá trị, ý nghĩa, sự đóng góp vào cộng đồng. Khi người làm báo thực hiện tốt vai trò này, sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam không chỉ “được biết đến”, mà còn “được yêu thích” và “được lựa chọn”, tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, cho ngành CNVH quốc gia, góp phần giúp sản phẩm mang bản sắc Việt Nam, khẳng định vị thế trên bản đồ CNVH toàn cầu.
Thứ hai, kết nối doanh nghiệp với công chúng. Người làm báo giữ vai trò là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp với công chúng trong hành trình phát triển ngành CNVH. Người làm báo giúp chuyển tải ý nghĩa, câu chuyện ẩn sau sản phẩm văn hóa để công chúng hiểu, đồng cảm và đón nhận sản phẩm đó không chỉ về giá trị sử dụng mà còn đón nhận giá trị tinh thần, một thông điệp văn hóa. Ngược lại, báo chí giúp doanh nghiệp lắng nghe phản hồi từ công chúng, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu, qua đó điều chỉnh, hoàn thiện sản phẩm cho phù hợp. Bên cạnh đó, báo chí tạo ra các diễn đàn trao đổi, tọa đàm, chuyên mục chuyên sâu,… giúp doanh nghiệp và công chúng có cơ hội đối thoại trực tiếp, tăng cường sự gắn kết, đồng hành, chia sẻ trách nhiệm trong phát triển sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Thứ ba, phản biện xã hội, định hướng, điều chỉnh chính sách. Báo chí giữ vai trò phản biện xã hội quan trọng, góp phần định hướng sự phát triển của sản phẩm, dịch vụ văn hóa và thúc đẩy hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển CNVH. Trong lĩnh vực văn hóa - nơi các sản phẩm vừa mang tính sáng tạo, vừa tác động trực tiếp đến đời sống tinh thần xã hội, người làm báo không chỉ quan sát, phân tích, đánh giá thực tiễn triển khai các sản phẩm, dịch vụ văn hóa trên thị trường, qua đó chỉ ra những hạn chế, bất cập trong chiến lược sáng tạo, sản xuất, phân phối của doanh nghiệp mà còn có trách nhiệm định hướng dư luận, góp phần hình thành nhận thức đúng đắn của xã hội đối với sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Đây là cơ sở để doanh nghiệp đánh giá lại hoạt động, điều chỉnh sản phẩm, dịch vụ theo hướng chất lượng hơn, nhân văn hơn, phù hợp hơn với nhu cầu và kỳ vọng của công chúng. Mặt khác, báo chí phản ánh những khó khăn, vướng mắc, rào cản từ cơ chế, chính sách, môi trường pháp lý, để cơ quan quản lý nhà nước nghiên cứu, điều chỉnh, ban hành chính sách sát với thực tiễn, tạo môi trường CNVH phát triển lành mạnh, bền vững.
Thứ tư, truyền cảm hứng, sáng tạo nội dung, khẳng định vai trò của báo chí như một phần của CNVH. Trong hệ sinh thái CNVH, báo chí không chỉ đóng vai trò là “kênh truyền dẫn” quảng bá sản phẩm, dịch vụ, mà còn chính là một phần cấu thành quan trọng của chuỗi giá trị sáng tạo. Với đặc thù sản xuất nội dung, sáng tạo thông tin, kể chuyện xã hội, báo chí vừa là người đồng hành, vừa là chủ thể trực tiếp tạo ra sản phẩm văn hóa, đóng góp vào sự phát triển chung của CNVH quốc gia.
Những tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí trở thành một phần của dòng chảy sáng tạo văn hóa. Các sản phẩm này không chỉ truyền tải câu chuyện, ý nghĩa của sản phẩm, dịch vụ văn hóa khác, mà còn có tính giải trí, giáo dục, nghệ thuật, tham gia vào đời sống tinh thần của công chúng. Quan trọng hơn, báo chí có tác động đa chiều trong hoạt động sáng tạo CNVH, như khơi gợi cảm hứng sáng tạo, hình thành thị hiếu, mở rộng không gian tiếp cận sản phẩm văn hóa, thúc đẩy hợp tác đa ngành. Chính nhờ vai trò này, báo chí giúp kết nối các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau trong CNVH, từ xuất bản, âm nhạc, điện ảnh đến mỹ thuật, du lịch, thiết kế sáng tạo,… tạo ra sức cộng hưởng lớn, lan tỏa mạnh mẽ giá trị văn hóa Việt Nam ra thị trường quốc tế.
Nhận diện báo chí như một chủ thể sáng tạo độc lập và là mắt xích không thể thiếu trong chuỗi giá trị CNVH sẽ giúp nâng cao vị thế của báo chí, đồng thời mở ra những cơ hội mới để ngành báo chí tham gia sâu rộng, chủ động hơn vào sự phát triển bền vững của CNVH Việt Nam.
Những thách thức đối với người làm báo khi đồng hành cùng doanh nghiệp phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam
Một là, thiếu kiến thức chuyên sâu và toàn diện về CNVH. CNVH là lĩnh vực có tính chất liên ngành và yêu cầu sự kết hợp chặt chẽ giữa sáng tạo nghệ thuật, công nghệ, sản xuất, quản trị thị trường và đặc biệt là bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, đội ngũ người làm báo còn thiếu kiến thức nền tảng về CNVH, chưa có cái nhìn toàn diện về cách thức vận hành, thiếu trải nghiệm trực tiếp với các lĩnh vực sáng tạo, như phim ảnh, âm nhạc, thời trang, trò chơi điện tử, thiết kế sáng tạo, mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn… nên thường tiếp cận vấn đề theo lối tường thuật sự kiện bề nổi, chưa đi sâu phân tích mô hình kinh doanh, chuỗi giá trị sáng tạo, tác động chính sách hay những thách thức đặc thù của các doanh nghiệp tham gia phát triển CNVH. Hệ quả là, các sản phẩm báo chí về CNVH phần lớn mang tính thông tin đơn thuần, chưa tổ chức những tuyến bài mang tính phân tích, điều tra, phản biện xã hội sâu sắc. Công chúng vì vậy cũng thiếu cơ hội hiểu đầy đủ những giá trị, ý nghĩa văn hóa cũng như những khó khăn, thách thức mà sản phẩm, dịch vụ văn hóa Việt Nam đối mặt khi tham gia thị trường. Về phía doanh nghiệp, họ chưa nhận được sự đồng hành đúng mức từ báo chí trong việc giải thích, truyền tải thông điệp văn hóa, hay phản ánh những kiến nghị, đề xuất chính sách cần thiết để phát triển ngành.
Hai là, thiếu đầu tư về chuyên môn hóa và dài hơi trong truyền thông CNVH. Phần lớn nội dung báo chí liên quan đến CNVH mới dừng ở mức phản ánh theo sự kiện đơn lẻ, như một buổi ra mắt phim, một lễ hội, một triển lãm hay một sản phẩm mới, mà chưa tổ chức thành nhiều tuyến bài mang tính liên kết, hệ thống hoặc theo dõi quá trình phát triển của các ngành cụ thể trong CNVH. Điều này phản ánh sự thiếu đầu tư cả về mặt chiến lược nội dung lẫn nguồn nhân lực chuyên biệt. Ở nhiều cơ quan báo chí, CNVH thường nằm trong các chuyên mục văn hóa - giải trí hoặc kinh tế - xã hội. Các phóng viên phụ trách mảng này thường phải kiêm nhiệm nhiều đề tài, không có điều kiện đi sâu nghiên cứu hoặc xây dựng mạng lưới cộng tác viên, chuyên gia, doanh nghiệp trong ngành. Điều này khiến việc truyền thông về CNVH mang tính rời rạc, thiếu chiều sâu, thiếu sự tiếp nối - điều rất cần thiết để nâng cao nhận thức xã hội về giá trị và tiềm năng của lĩnh vực này.
Mặt khác, sự thiếu dài hơi còn thể hiện ở cách thức tiếp cận nội dung. Các doanh nghiệp phát triển CNVH thường có chiến lược xây dựng thương hiệu và phát triển sản phẩm mang tính liên tục, gắn với từng giai đoạn, từng chiến dịch. Tuy nhiên, báo chí lại chưa đồng hành đủ lâu để theo sát các quá trình đó, từ lúc sản phẩm còn ở dạng ý tưởng đến khi hoàn thiện và đưa ra thị trường. Việc chỉ xuất hiện vào thời điểm ra mắt sản phẩm khiến báo chí bị xem như một “công cụ truyền thông tức thời” thay vì một đối tác chiến lược thực sự của doanh nghiệp. Hệ quả là doanh nghiệp không cảm nhận được sự đồng hành bền vững từ báo chí, còn người làm báo thì khó có cơ hội hiểu sâu, kể đúng và kể hay những câu chuyện sáng tạo đằng sau sản phẩm văn hóa. Sự thiếu chuyên môn hóa cũng khiến báo chí bị hạn chế khả năng phản biện, góp ý hay kiến tạo, định hướng phát triển cho doanh nghiệp - một chức năng quan trọng trong chuỗi giá trị truyền thông văn hóa.
Ba là, áp lực thương mại hóa và truyền thông nông, nhẹ. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt về lượt đọc, lượt xem, tương tác và quảng cáo, nhiều cơ quan báo chí buộc phải ưu tiên tốc độ, tính giật gân, mức độ thu hút chú ý thay vì tập trung đầu tư vào nội dung chuyên sâu, có giá trị bền vững. Đặc biệt, với lĩnh vực CNVH, vốn cần sự phân tích tinh tế, hiểu biết chuyên môn và định hướng thẩm mỹ, xu hướng này càng trở thành thách thức lớn. Nhiều bài viết về sản phẩm, dịch vụ văn hóa hiện nay tập trung khai thác bề nổi như các sự kiện ra mắt, tranh cãi nổi cộm, hiện tượng “nóng” trên các phương tiện truyền thông xã hội, mà chưa đi sâu vào câu chuyện sáng tạo, ý nghĩa văn hóa, hay đóng góp xã hội đằng sau sản phẩm.
Nguyên nhân sâu xa của thực trạng này xuất phát từ sự phụ thuộc ngày càng lớn của báo chí vào nguồn thu quảng cáo, tài trợ truyền thông, cũng như từ áp lực cạnh tranh với các phương tiện truyền thông xã hội và các nền tảng nội dung số, nơi tốc độ lan truyền thường được ưu tiên hơn chiều sâu thông tin. Ngoài ra, việc thiếu đội ngũ phóng viên am hiểu lĩnh vực CNVH, thiếu quỹ thời gian để đầu tư điều tra, phân tích chuyên sâu cũng là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến xu hướng làm báo “ăn xổi”, thiếu chiều sâu, bền vững. Công chúng có nguy cơ tiếp cận sản phẩm, dịch vụ văn hóa dưới góc nhìn giải trí đơn thuần, thậm chí lệch chuẩn, dẫn đến sự suy giảm niềm tin đối với cả sản phẩm lẫn doanh nghiệp. Về lâu dài, điều này làm suy giản uy tín của báo chí, giảm năng lực cạnh tranh của CNVH Việt Nam trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Bốn là, thiếu cơ chế phối hợp, chia sẻ giữa báo chí và doanh nghiệp trong lĩnh vực văn hóa. Trên thực tế hai bên có mối quan hệ mật thiết - báo chí cần nguồn thông tin từ doanh nghiệp, doanh nghiệp cần báo chí để lan tỏa sản phẩm, dịch vụ - nhưng mối quan hệ này phần lớn vẫn mang tính ngắn hạn, sự kiện, thiếu chiến lược và thiếu chiều sâu. Nguyên nhân đầu tiên là, do xuất phát từ cách nhìn nhận chưa đầy đủ từ hai phía. Nhiều doanh nghiệp vẫn coi báo chí chủ yếu là kênh truyền thông quảng bá sản phẩm tức thời, mà chưa xem báo chí là đối tác đồng hành lâu dài trong việc xây dựng giá trị văn hóa, định vị thương hiệu sản phẩm, hay truyền tải câu chuyện sáng tạo. Ngược lại, một bộ phận người làm báo cũng chỉ tiếp cận doanh nghiệp dưới góc độ cung cấp tin, bài, thông cáo báo chí, mà chưa chủ động tìm hiểu, khai thác sâu những câu chuyện, những vấn đề chiến lược liên quan đến phát triển CNVH. Nguyên nhân thứ hai là, thiếu các diễn đàn, cơ chế kết nối chính thức giữa báo chí và doanh nghiệp trong lĩnh vực CNVH. Hiện nay, phần lớn các hoạt động giao lưu, chia sẻ giữa hai bên mang tính nhỏ lẻ, rời rạc, thiếu tính chuyên ngành và chưa tạo được sự gắn kết bền vững. Điều này dẫn đến việc hai bên bỏ lỡ cơ hội phối hợp để cùng nâng cao giá trị và sức lan tỏa của sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Năm là, yêu cầu chuyển đổi số, sáng tạo đa phương tiện và thách thức đạo đức nghề nghiệp. Trong kỷ nguyên số, công chúng, đặc biệt là giới trẻ, nhóm khách hàng quan trọng nhất của CNVH ngày càng ưu tiên tiếp nhận thông tin qua các nền tảng phương tiện truyền thông xã hội, video ngắn, podcast, infographics, livestream… thay vì các bài báo truyền thống. Điều này buộc người làm báo không chỉ giỏi viết, phỏng vấn, phân tích, mà còn phải thành thạo các kỹ năng sản xuất nội dung đa phương tiện, hiểu cách phân phối nội dung trên nền tảng số, nắm bắt xu hướng truyền thông mới. Tuy nhiên, không phải người làm báo nào cũng được đào tạo, trang bị đầy đủ kỹ năng và công cụ phục vụ cho quá trình chuyển đổi số. Không ít nhà báo hiện nay vẫn quen với mô hình tác nghiệp truyền thống, chưa chủ động học hỏi, cập nhật kỹ năng số, dẫn đến tình trạng lúng túng khi triển khai các hình thức sản xuất nội dung mới. Điều này khiến báo chí dễ tụt hậu so với các nền tảng truyền thông xã hội, mất dần lợi thế cạnh tranh trong việc tiếp cận và ảnh hưởng đến công chúng mục tiêu của sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Bên cạnh yếu tố con người, nhiều cơ quan báo chí cũng gặp khó khăn về hạ tầng công nghệ, thiết bị, phần mềm, nền tảng sản xuất và phân phối nội dung đa phương tiện. Việc thiếu đầu tư bài bản cho chuyển đổi số khiến nỗ lực sáng tạo nội dung bị hạn chế, giảm khả năng đồng hành hiệu quả cùng doanh nghiệp trên các kênh truyền thông hiện đại.
Ngoài áp lực chuyển đổi số và sáng tạo nội dung đa phương tiện, một thách thức khác là sự xuống cấp đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận người làm báo. Một số nhà báo viết bài thiếu kiểm chứng, thổi phồng thông tin, thậm chí ép buộc, nhũng nhiễu doanh nghiệp. Nguyên nhân của hiện tượng này là do áp lực của kinh tế báo chí, cạnh tranh truyền thông và sự thiếu tu dưỡng đạo đức nghề báo của một số tác giả. Trong bối cảnh báo chí phải tự chủ tài chính, nhiều cơ quan báo chí phụ thuộc phần lớn vào nguồn thu quảng cáo, tài trợ, dẫn đến việc đặt nặng mục tiêu kinh tế lên trên trách nhiệm xã hội. Mặt khác, cơ quan báo chí thiếu cơ chế giám sát, kiểm tra chéo trong nội bộ khiến việc kiểm soát thông tin chưa chặt chẽ, dễ phát sinh việc lạm dụng truyền thông để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Giải pháp phát huy vai trò người làm báo trong đồng hành cùng doanh nghiệp phát triển công nghiệp văn hóa
Để người làm báo thực sự phát huy vai trò đồng hành cùng doanh nghiệp, trở thành lực lượng kiến tạo, dẫn dắt và lan tỏa giá trị văn hóa trong phát triển CNVH, cần thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp:
Thứ nhất, xác lập tầm nhìn nghề nghiệp cho người làm báo trong ngành công nghiệp văn hóa. Người làm báo cần nâng tầm tư duy nghề nghiệp, thoát ra khỏi cách làm báo đơn thuần phục vụ thương mại hay sự kiện ngắn hạn, tiến tới trở thành những người bạn đồng hành sáng tạo, những “người kể chuyện văn hóa” thực thụ. Điều đó đòi hỏi họ không ngừng trau dồi chuyên môn, mở rộng kiến thức liên ngành, cập nhật các xu hướng sáng tạo mới, chủ động kết nối, trải nghiệm thực tế cùng doanh nghiệp, nghệ sĩ, nhà sáng tạo. Khi báo chí làm được điều này, họ không chỉ truyền tải câu chuyện của sản phẩm, mà còn truyền cảm hứng, khích lệ đổi mới, tạo ra sức lan tỏa xã hội mạnh mẽ, giúp nuôi dưỡng một môi trường văn hóa sáng tạo, đồng thời tiếp thêm sức mạnh để doanh nghiệp phát triển bền vững.
Thứ hai, tạo lập môi trường hợp tác chiến lược, bình đẳng giữa báo chí và doanh nghiệp. Cần chuyển mối quan hệ báo chí - doanh nghiệp sang hướng hợp tác chiến lược, coi nhau là đối tác đồng hành cùng xây dựng giá trị. Môi trường hợp tác này đòi hỏi hai bên tôn trọng vai trò, đặc thù nghề nghiệp của nhau. Doanh nghiệp phát triển CNVH cần chủ động chia sẻ thông tin không chỉ về sản phẩm, mà cả về tầm nhìn, sứ mệnh, triết lý sáng tạo, khó khăn gặp phải, thậm chí cả những thất bại, bài học kinh nghiệm. Ngược lại, báo chí phải tiếp cận doanh nghiệp không chỉ với tư duy “làm tin”, “làm PR”, mà với thái độ đồng hành trách nhiệm: tìm hiểu câu chuyện sáng tạo, phân tích giá trị văn hóa, truyền tải ý nghĩa xã hội, phản ánh trung thực cả những điểm mạnh lẫn điểm yếu. Khi báo chí giúp sản phẩm, dịch vụ văn hóa Việt Nam định vị được chỗ đứng trên thị trường quốc tế, đó cũng là lúc thương hiệu văn hóa quốc gia được nâng tầm, “sức mạnh mềm” của đất nước được củng cố.
Thứ ba, hình thành không gian đối thoại chính sách về CNVH. Để báo chí đồng hành hiệu quả cùng doanh nghiệp phát triển CNVH, cần xây dựng các không gian đối thoại chính sách, nơi báo chí, doanh nghiệp, cơ quan quản lý và các bên liên quan có thể gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ và phản biện một cách trách nhiệm, minh bạch.
Báo chí với vai trò cầu nối xã hội, có thể trở thành lực lượng quan trọng giúp tập hợp tiếng nói từ doanh nghiệp, phản ánh lên các diễn đàn chính sách, đề xuất khuyến nghị, góp phần thúc đẩy điều chỉnh, hoàn thiện chính sách phát triển CNVH. Việc hình thành các không gian đối thoại này giúp báo chí thực hiện tốt hơn vai trò phản biện xã hội. Đây chính là sự “đồng hành” ở cấp độ chiến lược, khi báo chí không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp trên mặt trận truyền thông, mà còn góp phần định hình môi trường thể chế, pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp phát triển. Khi những cuộc đối thoại này được duy trì thường xuyên, công khai, minh bạch, một hệ sinh thái CNVH lành mạnh, bền vững sẽ từng bước được định hình.
Thứ tư, xây dựng cơ chế giám sát, đề cao trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Cần xây dựng các cơ chế giám sát chặt chẽ ở cơ quan báo chí và các cấp hội. Các cơ quan báo chí tăng cường giám sát nội bộ, kiểm soát chéo, kịp thời nhắc nhở, xử lý những vi phạm, đồng thời tôn vinh những nhà báo giàu bản lĩnh, tận tâm, trách nhiệm với cộng đồng, lan tỏa những giá trị tốt đẹp. Các hội nhà báo, tổ chức nghề nghiệp cần phát huy vai trò giám sát xã hội, chủ động phát hiện, lên tiếng về những biểu hiện lệch chuẩn, góp phần làm trong sạch đội ngũ. Không ngừng nâng cao nhận thức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho người làm báo. Chỉ khi người làm báo giữ được bản lĩnh, phẩm chất nghề nghiệp, báo chí mới trở thành người bạn đồng hành xứng đáng, giúp doanh nghiệp phát triển CNVH một cách lành mạnh, bền vững, góp phần xây dựng hình ảnh một nền văn hóa Việt Nam sáng tạo, bản sắc.
Thứ năm, đổi mới sáng tạo, đầu tư chuyển đổi số, nâng cao năng lực lan tỏa sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Nhà nước và các hội nghề nghiệp cần có cơ chế hỗ trợ nâng cao năng lực đội ngũ người làm báo, như tổ chức các lớp đào tạo chuyên sâu về CNVH, truyền thông số; tôn vinh, khen thưởng các tác phẩm sáng tạo, có giá trị lan tỏa tích cực cho sản phẩm, dịch vụ văn hóa Việt Nam. Các cơ quan báo chí cần đầu tư hạ tầng công nghệ, phần mềm, nền tảng số để hỗ trợ sản xuất nội dung số, đa nền tảng, phù hợp với xu hướng tiếp nhận của công chúng hiện đại. Doanh nghiệp cần chủ động hợp tác, chia sẻ thông tin, đồng tài trợ các dự án báo chí sáng tạo về CNVH. Sự chủ động này không chỉ dừng ở việc cung cấp dữ liệu, mà có thể là đồng phát triển các sản phẩm truyền thông sáng tạo (như phim tài liệu, podcast, tọa đàm chuyên đề…), cùng xây dựng chiến dịch lan tỏa giá trị sản phẩm văn hóa ra thị trường.
Trong dòng chảy phát triển đất nước, CNVH không chỉ là một ngành kinh tế, mà còn là hiện thân của “sức mạnh mềm”, của bản sắc, của niềm tự hào dân tộc. Sự đồng hành của báo chí và doanh nghiệp trong phát triển CNVH vì thế không đơn giản chỉ là mối quan hệ truyền thông - sản phẩm, mà chính là sự cộng hưởng để khơi dậy và nuôi dưỡng khát vọng lớn: Phát triển đất nước từ văn hóa!
Báo chí, bằng sức mạnh thông tin, kể chuyện, định hướng dư luận, định hình xu hướng, có thể giúp lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc, những sản phẩm, dịch vụ sáng tạo của doanh nghiệp Việt ra thị trường quốc tế, đồng thời khơi gợi niềm tự hào, tinh thần đổi mới, sự yêu thích sản phẩm Việt trong lòng công chúng. Ngược lại, doanh nghiệp, bằng sự sáng tạo và khát vọng vươn lên, cung cấp cho báo chí những câu chuyện mới, những minh chứng sống động cho một nền văn hóa Việt Nam hiện đại, năng động, hội nhập./.
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1098902/phat-huy-vai-tro-nguoi-lam-bao-trong-dong-hanh-cung-doanh-nghiep-phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-viet-nam.aspx
Bình luận (0)