Ngày 2/8, thông tin Sở Văn hóa và Thể thao TP Huế cho biết UBND TP Huế đã thống nhất chủ trương tiếp tục thăm dò, khai quật phần còn lại rộng khoảng 200m2 tại di tích Tháp đôi Liễu Cốc thuộc phường Kim Trà, nhằm nhận diện tổng thể mặt bằng kiến trúc đền tháp một cách đầy đủ, hoàn chỉnh.
Dù không còn nguyên vẹn, di tích tháp đôi Liễu Cốc được coi là công trình Chămpa độc đáo nhất còn được lưu giữ ở Việt Nam.

Công trình tôn giáo cổ duy nhất trên thế giới có hai đền tháp thờ chính
Tháp Liễu Cốc vừa trải qua hai đợt khai quật lớn, trong đó đợt thăm dò, khai quật giai đoạn 1 diễn ra năm 2024 trên diện tích 80m2, đợt khai quật giai đoạn 2 diễn ra từ tháng 5 đến tháng 6/2025 trên diện tích 66m2. Từ kết quả của hai đợt khai quật này, các nhà khảo cổ đã xác định Tháp đôi Liễu Cốc là một tổ hợp kiến trúc phân bố trên gò đất phù sa thấp, nằm bên hữu ngạn sông Bồ. Di tích được quy hoạch trong khu đất bằng phẳng với hai đền tháp thờ chính ở trung tâm, bao quanh là hệ thống tường bao ngăn cách khu vực trung tâm với vùng ngoại vi, lối vào qua kiến trúc tháp cổng.
Hai tháp thờ đều có mặt bằng hình vuông, tháp Nam rộng 6,08m, tháp Bắc rộng 5,7m, cửa chính hướng đông, lệch bắc 160, có tiền sảnh dài, ba phía bắc, nam và tây đều có cửa giả. Đáng chú ý, những đặc điểm về cấu trúc và nghệ thuật trang trí cho thấy hai tháp được xây dựng cách nhau khoảng 10–20 năm, trong đó tháp Bắc có thể được xây dựng vào cuối thế kỷ 9 và tháp Nam vào đầu thế kỷ 10 – giai đoạn chuyển tiếp giữa phong cách nghệ thuật Đồng Dương và Bình Định.
Thông qua hai hố thám sát, đoàn xác định không có sự hiện diện của tháp thứ ba trong khuôn viên di tích, qua đó khẳng định Tháp đôi Liễu Cốc là tổ hợp kiến trúc đặc biệt với chỉ hai đền tháp thờ chính. Đây là di tích duy nhất hiện biết ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung có hai đền tháp thờ chính (thông thường có 1 tháp hoặc 3 tháp thờ chính).
Từ kết quả bước đầu, đoàn khảo cổ kiến nghị cần tiếp tục mở rộng diện tích khai quật (hiện mới đạt 6% diện tích quy hoạch) nhằm làm rõ cấu trúc tổng thể của di tích, bao gồm tháp cổng, tường bao phía tây, tháp hỏa, nhà bia và hệ thống đường nội bộ. Đồng thời, đề xuất nghiên cứu bảo tồn kết cấu kiến trúc, xây dựng mái che bảo vệ 2 tòa tháp chính, phục dựng cảnh quan và bảo tồn miếu Dương Phi (Bà Chúa Tháp) – vốn có ý nghĩa văn hóa và tín ngưỡng sâu sắc với cộng đồng dân cư địa phương.
TP Huế cũng xác định chủ trương lập dự án bảo tồn lâu dài, đưa di tích này vào kế hoạch vốn đầu tư công giai đoạn 2026-2030, tiến tới tạo tiền đề cho việc thành lập một không gian văn hóa Chămpa đặc thù, hoặc cao hơn là bảo tàng văn hóa Chămpa và đề xuất xếp hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt đối với công trình kiến trúc lịch sử này.

Dấu ấn đậm đà trong văn hóa Cố đô
Các di sản Chămpa đóng vai trò đặc biệt trong việc hình thành, bổ sung và làm phong phú thêm giá trị văn hóa – lịch sử của Cố đô Huế. Trước khi trở thành kinh đô của triều Nguyễn vào đầu thế kỷ 19, vùng đất Thừa Thiên Huế từng là khu vực giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa người Việt và người Chăm trong nhiều thế kỷ. Từ thế kỷ 14 đến 15, sau quá trình mở rộng lãnh thổ về phương Nam, nhiều vùng đất từng thuộc vương quốc Chămpa được sáp nhập vào Đại Việt. Chính tại mảnh đất này, dấu ấn văn hóa Chămpa đã hòa quyện với văn hóa Việt, tạo nên một tầng sâu di sản góp phần định hình diện mạo Huế sau này.
Theo thống kê, Huế có trên dấu tích công trình liên quan đến văn hóa Chămpa, gồm 17 đền, tháp, 3 thành lũy và nhiều công trình như mộ, bia, giếng cổ… Ba địa điểm trong số đó được công nhận xếp hạng là di tích quốc gia, gồm: Tháp đôi Liễu Cốc; Thành Lồi và tháp Phú Diên. Trong đó, di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp quốc gia tháp đôi Liễu Cốc là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc trưng của người Chăm, đánh dấu một giai đoạn phát triển trong lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung, dân tộc Chăm nói riêng.
Bên cạnh các di tích lịch sử, các di sản phi vật thể của vương quốc Chămpa cũng để lại những dấu ấn đậm đà trong văn hóa của Cố đô Huế. Dấu ấn này thể hiện rõ nét ở sự tồn tại của những yếu tố Ấn Độ giáo trong đời sống tâm linh của cư dân Huế, đặc biệt là ở các làng ven biển và vùng đầm phá. Ngoài ra, di sản Chămpa cũng góp phần làm giàu kho tàng âm nhạc, ẩm thực và thủ công mỹ nghệ ở Huế. Một số làn điệu dân gian, nhạc cụ và kỹ thuật chế tác gốm, dệt, chạm khắc đá của người Chăm đã để lại dấu ấn nhất định trong đời sống văn hóa của cư dân địa phương. Sự hiện diện của cộng đồng người Chăm và con cháu họ tại một số địa bàn ở Huế cũng là cầu nối bảo tồn và truyền lại những giá trị văn hóa này cho các thế hệ sau.
Có thể nói, di sản Chămpa không chỉ là lớp trầm tích văn hóa tiền đề cho sự hình thành bản sắc riêng của Cố đô Huế, mà còn là yếu tố tạo nên sự đa dạng và chiều sâu lịch sử của vùng đất. Sự hòa quyện giữa văn hóa Chămpa và văn hóa Việt đã giúp Huế không chỉ là trung tâm quyền lực chính trị của triều Nguyễn, mà còn là một không gian văn hóa độc đáo, nơi hội tụ và kết tinh nhiều giá trị của các nền văn minh trong lịch sử Việt Nam.
Nguồn: https://khoahocdoisong.vn/tuyet-tac-champa-an-minh-giua-long-dat-hue-post2149045607.html
Bình luận (0)