Trong bối cảnh đó, công tác phòng vệ thương mại đã phát huy vai trò “tấm khiên” nhằm ổn định thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Phóng viên Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) Chu Thắng Trung xung quanh nội dung này.

Gia tăng về số lượng, phức tạp về tính chất
- Ông có thể cho biết tổng số vụ việc phòng vệ thương mại mà Việt Nam đã phải đối mặt tính đến giữa năm 2025 và những vấn đề đặt ra với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam?
- Tính đến giữa năm 2025, Việt Nam đã phải đối mặt với hơn 291 vụ việc phòng vệ thương mại từ các thị trường xuất khẩu trên thế giới. Riêng 6 tháng đầu năm 2025, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với 14 vụ việc phòng vệ thương mại nước ngoài mới khởi xướng, phát sinh từ 9 thị trường (tăng 1 vụ so với cùng kỳ năm 2024). Hoa Kỳ vẫn là nước điều tra nhiều nhất với 6 vụ việc.
Bên cạnh các vụ việc mới, Chính phủ và các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục phải xử lý hơn 100 vụ việc từ những năm trước đang trong quá trình điều tra, rà soát áp dụng biện pháp. Đơn cử, có những biện pháp đã được áp dụng hơn 20 năm như lệnh áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ với cá tra, basa, tôm nước ấm vẫn được rà soát hằng năm.
Những năm gần đây, các cuộc điều tra không chỉ gia tăng về số lượng, mà còn trở nên phức tạp hơn khi nhiều quốc gia điều tra các nội dung mới chưa có tiền lệ. Cùng với đó, sản phẩm bị điều tra ngày càng đa dạng. Những vụ việc này khiến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đối mặt nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ mất thị phần tại các thị trường trọng điểm, gia tăng chi phí pháp lý và ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Ngoài ra, các biện pháp phòng vệ thương mại cũng buộc doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng sản phẩm và minh bạch hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và cơ quan quản lý nhà nước trong việc theo dõi, ứng phó kịp thời và xây dựng chiến lược xuất khẩu bền vững.
- Chúng ta đã có những giải pháp cụ thể nào để ngăn chặn hàng hóa nhập khẩu có hành vi cạnh tranh không công bằng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, thưa ông?
- Đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do, hạ dần mức thuế nhập khẩu trung bình đối với hàng hóa nhập khẩu. Chúng ta có thể làm được điều này vì năng lực sản xuất của nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng phát triển, các doanh nghiệp Việt hoàn toàn tự tin để cạnh tranh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, một số hàng hóa nhập khẩu do không thể cạnh tranh được với hàng Việt nên đã có những hành vi cạnh tranh không công bằng như bán phá giá nhằm chiếm lĩnh thị phần và làm suy yếu vị thế của các doanh nghiệp Việt.
Để xử lý tình trạng này, chúng ta đã có các công cụ phòng vệ thương mại nhằm điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, khôi phục lại môi trường cạnh tranh công bằng và bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Cho đến nay, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra 59 vụ việc phòng vệ thương mại và có 31 biện pháp phòng vệ thương mại hiện vẫn đang còn hiệu lực. Các biện pháp này đã mang lại lợi ích thiết thực, bảo vệ và tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp xây dựng, công nghiệp tiêu dùng như luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản.
Quy mô doanh thu hằng năm của các doanh nghiệp được bảo vệ bởi các biện pháp phòng vệ thương mại ước tính đạt gần 500.000 tỷ đồng với trên 36.000 lao động trực tiếp và hàng trăm nghìn lao động gián tiếp, bảo đảm an ninh kinh tế, an sinh xã hội tại các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Xây dựng thương hiệu, tạo dựng lòng tin với đối tác

- Theo ông thời gian tới, công tác phòng vệ thương mại sẽ tiếp tục đặt ra những thách thức nào?
- Các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lưỡng, phân tích sâu sắc để bảo đảm tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng như các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia. Đồng thời, sự gia tăng các vụ việc phòng vệ thương mại từ các đối tác quốc tế sẽ yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng lực pháp lý, cải thiện chất lượng sản phẩm và minh bạch trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, việc ứng phó với những thay đổi nhanh chóng trong chính sách thương mại toàn cầu, đặc biệt là các xu hướng bảo hộ mới cũng sẽ tạo ra áp lực lớn đối với cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp.
Do đó, để vượt qua những thách thức này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan nhằm xây dựng chiến lược phòng vệ thương mại hiệu quả, đồng thời tăng cường năng lực cạnh tranh của hàng Việt trên thị trường quốc tế.
- Ông có thể cho biết các giải pháp mới, trọng tâm nào đang được Cục Phòng vệ thương mại triển khai để nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong năm 2025?
- Các giải pháp nâng cao năng lực phòng vệ thương mại đang được Cục triển khai gồm: Tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo xu hướng thương mại toàn cầu để kịp thời nhận diện các rủi ro tiềm ẩn; đẩy mạnh đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ về kỹ năng xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu hiện đại, tích hợp thông tin về các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước và tăng cường hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm, nâng cao năng lực ứng phó.
Đồng thời, Cục sẽ chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phòng vệ thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp, nhằm chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Những giải pháp này không chỉ hướng tới việc củng cố nội lực, mà còn nhằm bảo đảm Việt Nam duy trì vị thế vững chắc trên trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
- Theo ông, trong bối cảnh pháp lý và rào cản thương mại ngày càng phức tạp, doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị những gì để ứng phó và giữ vững thị phần, đồng thời mở rộng thị trường?
- Doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm, bảo đảm chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao hơn nữa hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm. Đồng thời, việc cập nhật thường xuyên các quy định pháp lý, chính sách thương mại của thị trường nước ngoài là yếu tố then chốt để giảm thiểu rủi ro và tránh vi phạm. Doanh nghiệp cũng cần xây dựng đội ngũ chuyên gia pháp lý và thương mại để hỗ trợ trong việc phân tích, đánh giá và đưa ra chiến lược ứng phó hiệu quả.
Ngoài ra, việc tăng cường hợp tác với các đối tác quốc tế, tham gia các hiệp hội ngành nghề và tận dụng các hiệp định thương mại tự do sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường mới. Việc đầu tư vào công nghệ, số hóa quy trình sản xuất và kinh doanh cũng là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí, nâng cao hiệu suất và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Cuối cùng, xây dựng thương hiệu mạnh mẽ, tạo dựng lòng tin với đối tác và khách hàng thông qua sự minh bạch và cam kết dài hạn sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ giữ vững thị phần, mà còn vươn xa trên thị trường quốc tế.
- Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: https://hanoimoi.vn/pho-cuc-truong-cuc-phong-ve-thuong-mai-bo-cong-thuong-chu-thang-trung-gia-tang-phong-ve-thuong-mai-hang-hoa-viet-doi-mat-nhieu-thach-thuc-712058.html
Bình luận (0)